Người ta không còn màng đến “Nghệ thuật đương đại là gì”, khuôn vàng thước ngọc của nó là như thế nào nữa; có lẽ người ta đã quá chán nản, mệt mỏi khi đã nhiều lần bàn đến nó và chẳng đi đến đâu.
Người ta không còn màng đến “Nghệ thuật đương đại là gì”, khuôn vàng thước ngọc của nó là như thế nào nữa; có lẽ người ta đã quá chán nản, mệt mỏi khi đã nhiều lần bàn đến nó và chẳng đi đến đâu.
Triết học, mỹ học và nghệ thuật học có nhiều cách trả lời cái đẹp của văn hóa nghệ thuật là gì. Những câu trả lời nằm ở hai trục tách biệt. Một bên là cái đẹp khái quát, một bên là cái đẹp cụ thể.
Di sản nghệ thuật dân gian của 54 tộc người ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, được Nhà nước bảo vệ, khuyến khích giữ gìn, phát huy. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn nghệ thuật dân gian còn nhiều vấn đề cần bàn…
Giáo dục nghệ thuật có vai trò quan trọng và cần thiết để góp phần trang bị một cách cơ bản và toàn diện cho con người, đặc biệt là thế hệ trẻ khi bước vào đời.
Nghệ thuật nào, dù là cao siêu đến đâu, thì cũng phải gắn với cuộc sống, xuất phát từ hiện thực cuộc sống, nhưng để hiểu và cảm nhận được ý nghĩa đích thực, thì lại không thể chỉ nhìn bằng hiện thực giản đơn mà có được.
Khoa học và nghệ thuật giống như hai mắt của văn hoá con người. Chính sự khác nhau của chúng (và cả sự bình đẳng về giá trị của chúng nữa) đã tạo ra nội hàm kiến thức của chúng ta. Không nên quy nghệ thuật vào lĩnh vực đùa vui hay minh hoạ dễ dãi cho các tư tưởng đạo đức cao siêu…
Đề cập đến quan điểm của Tâm lý học đối với sáng tạo nghệ thuật, bài viết chỉ đề cập đến các phần của sáng tạo nghệ thuật mà về nguyên tắc có thể áp dụng được cách phân tích Tâm lý học.
Chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều loại hình nghệ thuật mới, song liệu chúng ta có thấy các giá trị thẩm mỹ mới không? Các lý thuyết mới về nghệ thuật liệu có hơn gì những lý thuyết cũ không?
Trên một biểu đồ toán học, nếu trục ngang là ý thức – thực tại – là chiều đồng đại, trục đọc là tiềm thức – di truyền – lịch đại thì chắc chắn tác phẩm nghệ thuật hiện ra ở ngã tư của hai trục dao động này.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng mang đậm chất bản địa và nguyên thuỷ. Bởi vì tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc sâu xa từ chế độ mẫu hệ, trong đó người mẹ, người vợ giữ vị trí quan trọng trong gia đình.