Từ “Cổ điển” mang hàm ý rằng trong quá khứ, con người đã đạt tới sự tuyệt vời về nghệ thuật và ngày nay những công trình văn học, nghệ thuật liên quan tới truyền thống cũ đều được coi là cổ điển.
Từ “Cổ điển” mang hàm ý rằng trong quá khứ, con người đã đạt tới sự tuyệt vời về nghệ thuật và ngày nay những công trình văn học, nghệ thuật liên quan tới truyền thống cũ đều được coi là cổ điển.
Cảm thụ thẩm mỹ là hoạt động mang đậm dấu ấn cái “tôi” cá nhân của chủ thể, gắn liền với những năng lực tinh thần chủ quan, với tình cảm, thị hiếu của mỗi người.
Tự do với nghệ sĩ giống như chim hót cần thiên nhiên, khí trời… Không phải khi nào nghệ sĩ cũng có được hoàn cảnh tự do, và không phải khi nào tác phẩm nghệ thuật cũng sinh ra từ tự do, bắt đầu từ tự do.
Không có việc viết lại khái niệm NGHỆ SĨ theo hướng ‘’phổ cập”. Nhưng, trên thực tế, danh xưng này cũng như nhiều danh xưng khác đã bị “tầm thường hóa”, bị gán ghép tùy tiện cho các cá thể trong xã hội.
Hạt nhân của hệ thống mỹ học Phật giáo là thẩm mỹ của tư tưởng nhân đạo hiện thực, nhân văn. Tất cả đó đều từ con người, vì con người và về với con người.
Mỗi nghệ sĩ đương đại cần tìm cho mình một ý nghĩa cho cuộc đời cũng như một sự cởi mở trong tâm hồn. Mỗi giây phút chuyển hóa tâm linh ấy sẽ nâng đỡ người nghệ sĩ dần tìm ra con đường đích thực hoạt động nghệ thuật của mình.
Nhận thức không phải là sự phản ánh thụ động, giản đơn về hiện thực khách quan, mà là sự phản ánh mang tính tích cực, năng động và sáng tạo.
Rung động làm ra thơ, làm ra nghệ thuật, cũng cùng loại rung động với tình yêu. Bắt đầu yêu là một niềm xao động, bắt đầu một tứ thơ cũng là một nỗi niềm, mà tôi muốn gọi là nỗi – niềm – tinh – vân.
Khi con người nguyên thuỷ biết vẽ là loài người đã biết khẳng định sự tư duy của mình, biết phối hợp chân tay và đôi mắt có nghĩa là đã có một ý thức rõ về vũ trụ của mình.
Trong cảm quan Ấn Độ cổ đại, cái đẹp nhục cảm tồn tại phổ biến trong thế giới. Tuy nhiên, cái đẹp nhục cảm đó gắn với khả năng sinh nở của vạn vật.