Tôi cảm thấy cực kỳ may mắn vì đã được góp mặt trong lần cuối, hay lần áp chót đúng nghĩa Trung thu cổ truyền của người Việt nơi 36 phố phường Hà Nội thân thương.
Tôi cảm thấy cực kỳ may mắn vì đã được góp mặt trong lần cuối, hay lần áp chót đúng nghĩa Trung thu cổ truyền của người Việt nơi 36 phố phường Hà Nội thân thương.
Hồi bao cấp ấy, có hai cái tết hấp dẫn với bọn trẻ nhất. Đó trước hết là Tết Nguyên đán, rồi sau nữa là Tết Độc lập. Đơn giản vì hai cái Tết ấy, cả nhà được ăn cơm có thịt. Tết Trung thu thì chỉ vui chơi với vài ba cái kẹo thôi.
Tháng tám năm 1972, chúng tôi vây Khongsedon, một thành phố xung quanh là rừng, sông lớn. Sư đoàn 968 đối đầu với lính Thái, lính ngụy Lào, biệt kích Vàng Pao với các căn cứ pháo binh, phi cơ bảo vệ dày đặc.
Chuyến tàu đưa bố đi từ ga Hải Phòng, đơn vị bố có hơn 40 người Hải Phòng, vào đến Quảng Trị còn 14 người. Họ nhảy tàu vì đi B thì sẵn sàng nhưng đi Cam thì khác. Thời gian đầu còn có chút tin bố về nhà, càng về sau càng biền biệt…
Năm ấy, cầu Thăng Long vẫn đang xây. Chầm chậm, từ sân bay Nội Bài, chiếc com-măng-ca do Ðại học Tổng hợp cử đến đưa tôi về qua phía Nam Ðông Anh để đi qua cầu Ðuống.
Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh…
Rồi đây thế hệ chúng tôi cả hai phía sẽ theo quy luật sinh bệnh lão tử, rồi đây đất nước này dành cho và chỉ là cho các thế hệ sau chúng tôi; chúng không liên quan gì tới những hận thù trận mạc bấy nay và cười diễu cha anh nếu còn cố chấp.
16/2/1979 (sau Tết Kỷ Mùi ít ngày) tôi mua vé máy bay đi Cao Bằng (lúc đó có đường bay Hà Nội – Cao Bằng), người bán vé cho biết không bán vé khứ hồi. Tôi nghĩ, thế là chiến tranh sắp đến rồi!