Phần đông tìm đến nghệ thuật để mua vui nhiều hơn là thưởng thức, tức là để đáp ứng nhu cầu giải trí nhiều hơn là thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, tìm kiếm cái đẹp trong cuộc sống, tâm hồn.
Phần đông tìm đến nghệ thuật để mua vui nhiều hơn là thưởng thức, tức là để đáp ứng nhu cầu giải trí nhiều hơn là thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, tìm kiếm cái đẹp trong cuộc sống, tâm hồn.
Nghệ thuật muôn thuở là vấn đề của cá nhân. Xuất phát từ trải nghiệm, từ câu chuyện, từ cảm xúc của chính mình để làm ra tác phẩm…
Nghệ thuật lại là cách tốt nhất để phơi bầy ra sự nhiễu loạn của chính cái thế giới đang phát triển và bão hòa một cách mau lẹ ấy: Sau cơn nhiễu loạn, thật khó biết thế giới ấy rồi sẽ ra sao.
Người ta vẫn thường cho rằng “tính dân tộc” và “tính nhân loại” là hai khái niệm đối lập nhau, mâu thuẫn với nhau, mặc dầu sự giao thoa giữa hai “đối cực” này vẫn diễn ra một cách tự nhiên, thoải mái trong văn học nghệ thuật, từ Đông sang Tây.
Sự săn tìm cái mới trong nghệ thuật có cái lô gích của nó, song cũng như cái cốt lõi triết học của nó. Và sự săn tìm cái mới không bao giờ có kết thúc.
Thị hiếu thẩm mĩ hiện diện trong các mặt của đời sống xã hội như thế nào? Câu hỏi này có vô vàn đáp số, vô vàn quan điểm và nhận thức khác nhau.
Nếu tách Black Pink, Sơn Tùng ra khỏi danh tiếng, người hâm mộ, lượt view, độ nổi tiếng, liệu ta có phân biệt được những cô gái, chàng trai đó và những tác phẩm của họ trong vô vàn những điệu nhảy, giọng ca khác?
Ngay từ những ngày đầu tiên khi con người thoát khỏi thế giới động vật, thoát khỏi cuộc sống bầy đàn đầy chất tự nhiên trong sinh hoạt cộng đồng người đã xuất hiện các yếu tố nghệ thuật.
Ta thường nói cái này đẹp, cái kia xấu; đọc bài văn khen hay, nhìn bức tranh khen khéo, nghe đàn mà cảm động, xúc cảnh mà hứng hoài. Bấy nhiêu thứ đều gợi ra trong tâm tình ta một cái cảm riêng, nhà tâm lý gọi là “mỹ cảm”.