“Nỗi buồn chiến tranh” là tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại đầu tiên viết về chiến tranh có cái nhìn khác với quan niệm truyền thống, khẳng định quyền sống, hạnh phúc và đau khổ của con người với tư cách một cá thể độc lập.
“Nỗi buồn chiến tranh” là tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại đầu tiên viết về chiến tranh có cái nhìn khác với quan niệm truyền thống, khẳng định quyền sống, hạnh phúc và đau khổ của con người với tư cách một cá thể độc lập.
“Với tính nhân văn rất cao, văn học Nga đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên tính cách, lối sống của thời đại đó. Phải nói rằng trước đây, thanh niên sống có trách nhiệm hơn”.
Hình tượng con hổ cũng xuất hiện nhiều qua văn học Việt Nam. Bên cạnh những câu chuyện cổ tích xuất hiện từ lâu đời thì hổ còn được nhắc đến trong các tác phẩm văn học thời cổ cũng như thời kỳ cận đại và hiện đại.
Nhiều nét thanh lịch của Hà Nội hào hoa xưa có lẽ giờ đã là “vang bóng một thời”, nhưng văn chương thực như một món quà, đã lưu giữ lại được những điều đã dần tàn phai ấy.
Khảo sát về mặt tình dục trong ca dao Việt Nam mới thấy được những nhận xét thật uyên bác rất tinh tế của người nông dân…
Với tất cả sự anh hùng và bi kịch của nó, tiếp xúc với văn hóa, văn học Nga thế kỷ 20, cái còn lại sâu đậm nhất là những nỗi niềm về Số phận con người”.
Trong vòng chưa đầy 2 thập kỷ từ khi ra đời, nền văn học này đã có những tác phẩm vĩ đại được cả thế giới công nhận; trong đó, có giải thưởng Nobel Văn học cho tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm”.
Mùa thu dường như được gắn liền với một cái gì buồn bã. Trong Hán tự, chữ sầu 愁 (buồn bã) gồm có chữ thu 秋 (mùa thu) ở trên và chữ tâm 心 (con tim) ở dưới.
Có tác giả “khoe” trong tiểu thuyết của mình có chuyện Lý Thường Kiệt… đồng tính và mối tình đồng giới với Vua Nhân Tông (!); rồi quan hệ tình ái phức tạp giữa Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ với Lê Thái Tông (!)…