Công ước Luật Biển 1982 đã qui định khá chi tiết về phương pháp thiết lập hệ thống đường cơ sở dùng để tình chiều rộng lãnh hải của quốc gia ven biển.
Công ước Luật Biển 1982 đã qui định khá chi tiết về phương pháp thiết lập hệ thống đường cơ sở dùng để tình chiều rộng lãnh hải của quốc gia ven biển.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa được các triều đại phong kiến Việt Nam thực thi từ rất sớm.
Mục đích bài viết này không chỉ đơn thuần so sánh hơn thua về hải quân hai nước mà còn vạch ra điều sai trái của nhà biên khào Trung Quốc Hàn Chấn Hoa.
Tháng 9/1975, báo Nhân Dân đăng bài thơ của Tố Hữu, tuyên bố quần đảo Trường Sa là một phần bất khả phân của nước Việt Nam thống nhất.
Các triều đại phong kiến luôn quan tâm, chú trọng đến việc kiểm soát, bảo vệ và thực thi các quyền của mình ở những hải đảo đó nói riêng và biển Đông nói chung, mặt khác còn thể hiện tính nhân đạo sâu sắc.
Với tư cách là đại diện Nhà nước Việt Nam về đối ngoại trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp, Cộng hòa Pháp đã tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự kiện bảy lần đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà là có thật. Nhưng chuyện Trịnh Hoà đánh chiếm Chiêm Thành và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1413 chỉ là chiến dịch tuyên truyền bịa đặt.
Huyện đảo Lý Sơn là căn cứ đầu tiên để người Việt tiến ra làm chủ Hoàng Sa. Các đội Hoàng Sa và Bắc Hải quản lý và khai thác các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa dưới 8 đời chúa, gần một thế kỷ rưỡi.
Tính đến thời gian xuất bản năm 1838, nước ta chưa từng có một bản đồ nào lớn rộng và ghi chép khá đầy đủ địa danh như An Nam đại quốc họa đồ.
Năm 1776, Lê Quý Đôn đã tranh thủ thời gian “đi dạo núi sông, hỏi di tích, xem xét lệ cũ, tìm kiếm nhân tài, tùy bút chép ra thành quyển gọi tên là Phủ biên tạp lục”