Tư tưởng của Karl Marx sẽ đứng đâu trong thế kỷ 21?

Lịch sử nhân loại thế kỷ 20 và hiện nay đã hoàn toàn xác nhận những chỉ dẫn hết sức tinh tường về chủ nghĩa tư bản của K. Marx.

Tư tưởng của Karl Marx sẽ đứng đâu trong thế kỷ 21?

Cuối thế kỷ 20 – đầu thế kỷ 21, lịch sử nhân loại đã diễn ra với nhiều biến cố bất ngờ, từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đến sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Nhân đó, đã có nhiều công trình, bài viết tuyên bố về cái chết của triết học Marx, chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của Marx. Song, thực tiễn lịch sử đã cho thấy, với bản chất cách mạng và khoa học, triết học Marx, chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của K. Marx không những không chết, mà còn trường tồn với nhân loại ở thê kỷ 21. Rằng, những di sản lý luận của K. Marx đã trở thành tài sản chung của cả nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy.

Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã từng là đề tài của những cuốn sách, bài báo mà trong đó, các tác giả của chúng đều có một cái đích chung là “chứng minh” về cái chết của chủ nghĩa Marx, về cái chết của chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của K. Marx. Nổi bật trong số các cuốn sách loại đó phải nói đến cuốn Sự cáo chung của lịch sử và con người cuối cùng của Francis Fukuyama xuất bản tại New york năm 1992.

Theo sự so sánh của Jacques Derida – nhà triết học người Pháp, một trong những nhà triết học phương Tây nổi tiếng thế giới ở thế kỷ 20, trong cuốn Những bóng ma của Marx (Spectres de Marx), thì lúc đó, ở phương Tây, “người ta mua cuốn sách này như một bà nội trợ xô vào mua đường và dầu, khi có những tin đồn đầu tiên về chiến tranh”. Bên cạnh nhiều đánh giá khác của Jacques Derida về cuốn sách trên của Francis Fukuyama, thì những đánh giá sau đây của ông quả thật rất đáng lưu ý: “Nếu một luận thuyết kiểu như luận thuyết của Fukuyama đóng một cách có hiệu quả vai trò gây mơ hồ và vai trò phủ nhận sầu thảm gấp đôi mà người ta chờ đợi ở nó, thì nó đã làm một trò lừa gạt một cách khôn khéo đối với một số người này và thô bạo đối với một số người khác”. Hoặc: “Phải thừa nhận là quyển sách này mang sắc thái tinh vi hơn, đôi khi để lửng, thậm chí đến mức mập mờ…”. Nói cách khác, người ta không thể không nghi ngờ về tính khách quan và tính khoa học của cuốn sách trên của Fukuyama. Không ai có thể phủ nhận một sự thật là Liên Xô và khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ chủ nghĩa xã hội đã bị một tổn thất hết sức nặng nề. Nhưng từ sự sụp đổ đó mà rút ra kết luận rằng, học thuyết của K. Marx đã chết, triết học K. Marx đã chết, chủ nghĩa cộng sản đã chết thì thật là một sự vui mừng quá sớm, là một sai lầm, nếu không muốn nói là do những động cơ không trong sáng, hay nặng hơn, là do sự thù ghét cay độc đối với K. Marx và các học thuyết của ông. Hãy khoan nói đến ở đây những nguyên nhân gây ra sự sụp đổ đó của Liên Xô và các nước Đông Âu với tính cách một mô hình, một kiểu chủ nghĩa xã hội đã được người đời sau thiết kế theo sự hiểu biết, sự giả định, một sự mong muốn chủ quan của mình nhưng lại mệnh danh, hoặc tưởng rằng, đã làm theo đúng chỉ dẫn của K. Marx, là xuất phát từ K. Marx, là trung thành tuyệt đối với K. Marx, bởi những nguyên nhân gây nên sự sụp đổ ấy thì có rất nhiều và cần phải được mổ xẻ trong một dịp khác.

Chúng ta hãy thử đề cập một cách vắn tắt đến các học thuyết cơ bản của K. Marx, chẳng hạn như quan niệm duy vật về lịch sử hay học thuyết về giá trị thặng dư, chứ chưa nói đến rất nhiều những tư tưởng vượt thời đại khác của ông đã hợp thành chủ nghĩa mang tên ông, để có một cái nhìn thật sự khách quan, thật sự khoa học, thật sự tôn trọng K. Marx.

Trước hết, chúng ta hãy nhớ lại một luận điểm nổi tiếng mà người tiền bối vĩ đại của K. Marx đã đưa ra trong lĩnh vực triết học, người đã được K. Marx cải tạo theo lối duy vật, đã kế thừa và vượt qua. Đó chính là luận điểm được Hegel trình bày trong Những bài giảng về lịch sử triết học của ông. Hegel viết: “Triết học hiện đại là kết quả của tất cả những nguyên lý có từ trước đó, như vậy, không có một hệ thống nào bị lật đổ, không phải nguyên lý của triết học đó bị lật đổ mà chỉ có sự giả định rằng, nguyên lý đó là định nghĩa tuyệt đối cuối cùng bị lật đổ mà thôi”.

Câu nói đó của Hegel hoàn toàn có thể vận dụng vào trường hợp của K. Marx. Điều đó có nghĩa là, một học thuyết, một hệ thống triết học hay một học thuyết xã hội nào đó, nếu là kết quả của sự tổng kết khoa học về lịch sử, là sự đúc rút từ các nguyên lý khoa học có từ trước đó mà không bị tuyệt đối hoá đến mức giáo điều, không bị làm cho khô cứng đi thì không bao giờ nó mất hết các giá trị, không bao giờ bị sụp đổ hoàn toàn. Điều đó cũng rất dễ hiểu. Không có một lý thuyết nào là tuyệt đối đúng cho mọi thời đại, trong mọi điều kiện lịch sử, bởi chân lý là một quá trình, chân lý nằm trong quá trình và việc đạt đến chân lý cũng là một quá trình. Các tư tưởng, các học thuyết của K. Marx về triết học, về xã hội, về kinh tế, về con người, về khoa học và kỹ thuật, v.v. vốn là kết quả của một sự nghiên cứu, phê phán, tiếp thu, vượt bỏ những thiên tài trước ông, tính từ thời Cổ đại cho đến tận L. Feuerbach, của sự khái quát lý luận và tổng kết thực tiễn cực kỳ sôi động thế giới lúc bấy giờ, và trên hết là sự sáng tạo tuyệt vời của một bộ óc thiên tài, của một trong những vĩ nhân vĩ đại nhất, có ảnh hưởng to lớn nhất trong mọi thời đại của nhân loại, như một cuộc thăm dò dư luận phương Tây cuối thế kỷ 20 đã cho thấy. Những tiền đề xuất phát để K. Marx rút ra các kết luận lý luận “không phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều, đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi… Những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần tuý. Do vậy, những tư tưởng và những học thuyết của K. Marx hoàn toàn và tuyệt nhiên không phải là những “ảo tưởng chủ quan”, không phải là “duy ý chí” như những người phê phán K. Marx đã cố tình gán ghép.

Chúng ta đều biết rằng, do không thỏa mãn với các cách giải thích khác nhau của những người đi trước mình về lịch sử xã hội loài người, nên K. Marx đã kiên trì đi tìm và đã tìm ra “những điều bí ẩn của lịch sử”, “chủ thể của lịch sử và chìa khóa của lịch sử đích thực”. Với K. Marx, cái thúc đẩy sự vận động của lịch sử không phải là sức mạnh siêu tự nhiên, cũng không phải là những tư tưởng hay ý chí của con người, của các vĩ nhân, mà chính là sản xuất vật chất, là những lợi ích vật chất, còn chính quần chúng nhân dân mới là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử của mình.

Quan điểm mang tính chất nền tảng đó có quan hệ chặt chẽ với quan niệm về sự phát triển của lực lượng sản xuất và vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của mọi hình thái xã hội từ trước cho đến nay. Với K. Marx, không những các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau là một quá trình lịch sử – tự nhiên, mà sự thay thế các hình thái đó cũng là một quá trình lịch sử – tự nhiên. Điều đó có nghĩa rằng, khi đã là một quá trình lịch sử – tự nhiên thì con người hoàn toàn có thể khám phá được, có thể nhận thức được, có thể nắm được và vận dụng được các quy luật vận động của nó. Và, K. Marx đã chứng minh điều đó một cách tài tình, vừa khoa học, vừa hết sức thuyết phục trong nhiều công trình, đặc biệt là trong bộ Tư bản – một công trình của suốt cả cuộc đời K. Marx, rằng hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, sớm hay muộn, tất yếu sẽ bị thay thế bằng một phương thức sản xuất tiên tiến hơn, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội sẽ đến một lúc không còn có thể chứa đựng trong các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nữa. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử.

Tuy nhiên, khi khẳng định như vậy, K. Marx không hề xác định thời điểm cụ thể về sự thay thế đó hay về thời điểm diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Đáng tiếc là những người lãnh đạo và các nhà lý luận đi sau K. Marx, do quá say sưa với thắng lợi và sự lớn mạnh một thời của chủ nghĩa xã hội trên quy mô thế giới, dường như muốn thúc đẩy nhanh “cái chết” đó của chủ nghĩa tư bản nên đã không đủ tỉnh táo để thấy rằng chính K. Marx, ngay trong Lời tựa viết cho lần xuất bản đầu tiên tập I bộ Tư bản, đã nhận ra rằng, xã hội tư bản “hoàn toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể có khả năng biến đổi và luôn luôn ở trong quá trình biến đổi”. Rõ ràng, một xã hội, cũng như một cơ thể sống, khi còn có khả năng biến đổi và đang trong quá trình biến đổi thì có nghĩa là cơ thể đó còn có khả năng thích nghi, nó chưa thể chết ngay. Về điều này, K. Marx cũng đã từng nói rằng, “không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành”.

Lịch sử nhân loại thế kỷ 20 và hiện nay đã hoàn toàn xác nhận những chỉ dẫn hết sức tinh tường đó của K. Marx. Hệ thống tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn đang còn sức sống, đang thể hiện sức mạnh thực sự của nó ở những mặt nhất định và đang chi phối khá mạnh nền chính trị và kinh tế thế giới, chứ chưa phải đã đến lúc lịch sử của nó kết thúc. Hệ thống đó vẫn đang có khả năng thích nghi, tự điều chỉnh và tiếp tục phát triển. Không thể không thấy điều đó. Vậy, liệu có thể từ đó mà rút ra kết luận rằng, chủ nghĩa tư bản là vĩnh hằng, là bất tử, là tương lai duy nhất của nhân loại hay không? Không. Hoàn toàn không thể! Mọi sự biện hộ theo kiểu đó đều không có cơ sở. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá hiện nay mà K. Marx đã từng dự báo về sự ra đời của nó, với sức mạnh của nó và với cả những mâu thuẫn nội tại mà tự thân nó không thể nào giải quyết được, là bước chuẩn bị cho sự thay thế nó trong tương lai, tức là các điều kiện chuẩn bị cho sự thay thế đó đang trong quá trình hình thành ở ngay trong chính bản thân nó. Lịch sử không bao giờ ngừng lại, không bao giờ ngưng đọng. Biện chứng của lịch sử chính là như vậy và sẽ mãi mãi là như vậy. Những bí mật làm giàu của các nhà tư bản và sự bần cùng của người lao động cũng đã từng là một bí mật của lịch sử đã được chính K. Marx khám phá ra nhờ học thuyết về giá trị thặng dư. Việc phát hiện ra học thuyết này là “công lao lịch sử vĩ đại nhất lao động của Marx. Nó chiếu sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước kia những nhà xã hội chủ nghĩa cũng mò mẫm trong bóng tôi không kém gì những nhà kinh tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày có giải đáp đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học”.

Ngày nay, nhân loại đang từng bước tiến vào kinh tế tri thức, tri thức đang chuyển hoá thành lực lượng sản xuất trực tiếp như K. Marx đã từng tiên đoán. Sự kiện nhân loại bước vào kinh tế tri thức này lại cũng là lý do để cho một số người, cả ở nước ta lẫn nước ngoài, ngộ nhận rằng, kinh tế tư bản và các nhà tư bản đã thay đổi về bản chất, không còn bóc lột người lao động, không tìm kiếm giá trị thặng dư như khi K. Marx viết bộ Tư bản nữa. Theo họ, sức lao động của con người ngày nay chủ yếu đã được chuyển sang cho các máy móc cực kỳ tinh vi với hiệu suất rất cao. Tỷ lệ giá trị của lao động sống không thể so với giá trị do máy móc làm ra, do đó, theo họ, máy móc hiện đại mới là cái sản xuất ra giá trị thặng dư, nghĩa là nhà tư bản bây giờ chỉ còn bóc lột máy móc chứ không phải bóc lột công nhân!

Thật ra, như K. Marx đã từng nói: “… Những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới, từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Nhận xét đó của K. Marx vẫn rất đúng trong điều kiện hiện nay. Máy móc, dù có hiện đại đến đâu chăng nữa, cũng vẫn không thể thiếu được sức lao động của con người. Hơn thế nữa, máy móc càng hiện đại, càng tạo ra nhiều sản phẩm hơn, các sản phẩm càng có hàm lượng từ thức nhiều hơn thì lại càng đòi hỏi chất lượng lao động cao hơn, tri thức nhiều hơn, do đó, càng không thể thiếu được công nhân tri thức. Nghĩa là, sản xuất, dù hiện đại đến đâu, cũng không thể thiếu được sức lao động của con người, của người công nhân, của kỹ sư, của nhà khoa học, tức là không thể thiếu được lao động sống. Vậy, nhà tư bản lấy lợi nhuận ở đâu, có chiếm đoạt giá trị thặng dư ở đây không? Chắc chắn không khó để trả lời. Chính K. Marx đã chỉ rõ rằng, sự sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của sản xuất tư bản chủ nghĩa, không có lợi nhuận thì không một nhà tư bản nào chịu bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh, mà nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái sinh và được biến đổi của giá trị thặng dư, là hình thái tư sản trong đó đã xoá hết những nguồn gốc của nó”. Dường như có người đã không biết, hoặc đã cố tình quên đi sự luận chứng rất quan trọng và khoa học này của K. Marx về mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Rõ ràng là, trong thời đại hiện nay, hình thức bóc lột có thay đổi, đã trở nên khó nhận biết hơn, tinh vi hơn và khác hơn so với thời của K. Marx, nhưng bản chất bóc lột của tư bản thì không khác. Đó chính là nguồn gốc, là nguyên nhân dẫn đến hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa những nước giàu và những nước nghèo hiện nay trên thế giới, kể cả ở các nước tư bản phát triển nhất, đang ngày một doãng ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn.

Từ hai vấn đề quan trọng trên, có thể nói rằng, những học thuyết quan trọng của K. Marx không hề lỗi thời, nếu chúng không bị tuyệt đối hoá, nếu như nghiên cứu và vận dụng chúng theo tinh thần biện chứng chứ không phải một cách giáo điều, xơ cứng. Điều này không chỉ chúng ta nói và tin, mà ngay cả nhiều nhà triết học phương Tây nổi tiếng cũng tin như vậy. Và, chắc lòng tin đó của họ không thể coi là xuất phát từ hệ tư tưởng, mà chính là từ những sự trải nghiệm, sự phân tích thực tiễn và sự tổng kết lý luận của chính họ.

Jacques Derida, trong Những bóng ma của Marx đã dẫn ra ở trên, khi thừa nhận rằng, “tất cả mọi người trên toàn trái đất này, dù họ muốn, họ biết hay là không, đều là những người kế thừa của Marx và chủ nghĩa Marx với một mức độ nhất định”, đã khẳng định: “Luôn luôn sẽ là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại và tranh luận những tác phẩm của Marx… Đó sẽ càng ngày càng là một sai lầm, một sự thiếu trách nhiệm về mặt lý luận, triết học và chính trị… Sẽ không có tương lai khi không có trách nhiệm đó. Không có nếu không có K. Marx không có tương lai mà lại không có Marx. Nếu không có ký ức về Marx và không có di sản của Marx “.

Chủ nghĩa Marx không chết, chủ nghĩa cộng sản được xây dựng dựa trên các học thuyết chân chính của K. Marx không chết như một số người từng tuyên bố. K. Marx vẫn sống với nhân loại không chỉ ở thế kỷ 21, bởi những di sản của K. Marx đã trở thành tài sản chung của cả nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy, bởi như Michel Vadée – nhà triết học, thành viên của Trung tâm nghiên cứu và tư liệu về Hegel và Marx thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, đã nhận định rằng, “tư tưởng của Marx đã được biết đến nhiều: nó đã cắm sâu vào thế giới”.

S.T

Tags: , , , , ,