Tinh thần con người một khi trở nên quen với sự tự do và tính vô tư của sự chiêm ngắm triết học thì nó sẽ giữ lại cái gì đó giống với sự tự do và tính vô tư trong thế giới của hành động và cảm xúc.
Tinh thần con người một khi trở nên quen với sự tự do và tính vô tư của sự chiêm ngắm triết học thì nó sẽ giữ lại cái gì đó giống với sự tự do và tính vô tư trong thế giới của hành động và cảm xúc.
Vào khoảng trước sau thế kỷ 14, lịch sử văn hóa nhân loại đã chứng kiến một cách mạng tư tưởng rất vĩ đại. Cuộc vận động bắt đầu ở Ý, rồi từ cuối thế kỷ 10, đến giữa thế kỷ 16, sẽ tràn lan dần dần khắp miền Tây Âu.
Thiền, có xuất xứ từ Ấn Độ cổ đại, được xem là một phương pháp giáo dục con người một cách toàn diện, hướng con người đến chân – thiện – mỹ, rèn luyện con người phát triển thể lực và trí lực một cách hài hoà và tốt đẹp.
Giải thoát bản thân khỏi sự ràng buộc của những dục vọng, từng bước nâng cao tri thức của mình về vạn vật (cách vật), về thế giới con người (biết người, yêu thương con người) là con đường hoàn thiện chân chính của Quân tử.
Đạo Phật cho rằng, với nỗ lực lớn con người có thể giải quyết tất cả, bằng cách thay chuyển hướng tư duy, thay đổi tư duy, thay đổi cái nhìn thì các vấn đề khủng hoảng của thời đại cũng được giải quyết.
Con người khát sống? Con người là kẻ hành hương đi tìm hạnh phúc? Song bi kịch thay, con đường hạnh phúc đó lại chông chênh leo qua miệng vực đau khổ …
Vô thường không phải là chủ thuyết bi quan, mà trái lại, nó là chủ thuyết lạc quan. Tại sao lại như vậy?
Vua Trần Nhân Tông đã sống cuộc đời oanh liệt và hoành tráng, có những đóng góp to lớn và thiết thực cho dân tộc và Phật giáo.Thế thì, vua đã sống và hành động theo hướng nào, dưới sự tác động của những suy nghĩ tư tưởng gì?
Cái gọi là “Nam Man, Đông Di, Tây Nhung, Bắc Địch” tất cả đều không đáng nhắc đến, chỉ có Trung quốc mới là hạt nhân của văn minh…
Trung đạo không chỉ là quan điểm sống của Phật giáo, biểu thị tinh thần trung dung cởi mở không cố chấp, nó còn là một hệ thống triết học thâm sâu của Phật giáo Đại thừa