Nhớ gốc rễ văn hoá nước ấy thì còn nước. Để mất cái gốc nước ấy, mất văn hoá ấy, mất văn hoá nước ấy thì mất nước.
Nhớ gốc rễ văn hoá nước ấy thì còn nước. Để mất cái gốc nước ấy, mất văn hoá ấy, mất văn hoá nước ấy thì mất nước.
Có một sự thật đau đớn và kiêu hãnh trong lịch sử thế giới rằng: Bất cứ mọi quốc gia nhỏ yếu nằm bên cạnh nước lớn thì đều phải gồng mình chống đồng hóa dân tộc.
Đạo đức của con người luôn được mọi thời từ cổ tới kim đề cập tới. Ngày nay, đây cũng luôn là một vấn đề “nóng”. Cha ông ta xưa có quan điểm thế nào về vấn đề này?
Tăng Kình (1568 – 1650), họa gia đời Minh, tự Ba Thần, nổi tiếng với các sáng tác về đề tài chân dung, từng qua lại một dải Hàng Châu, Ninh Ba, Dư Diêu… vẽ tranh mưu sinh.
Ở nước chúng ta các cụ ngày xưa thường nói “đêm năm canh ngày sáu khắc”, coi “canh” và “khắc” là đơn vị để tính các giờ trong ngày.
Quan niệm cổ xưa nhất về văn học là văn chương có thể thông với thần linh. Người ta tin rằng những lời văn có thể thấu tới thần linh hoặc hồn người ở thế giới bên kia.
Nhờ vào những kết quả khảo cổ, kết hợp với ghi chép sử liệu, đối chiếu với các đô thành Trung Hoa đương thời, đến nay, hiểu biết về một phần Hoàng thành Thăng Long thời Lý đã khá rõ ràng.
Chừng vài chục năm trở lại đây trong giới hoạt động và nghiên cứu văn hóa nghệ thuật thường nghe nhắc đến các thuật ngữ “tâm linh”, và đôi khi, “sân khấu tâm linh”.
Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian…
Đơn giản mà tràn đầy sức sống, mộc mạc mà thấm đẫm tình quê, ấy chính là tranh Đông Hồ, dòng tranh được tạo nên từ bàn tay của rất nhiều người dân lao động.