Lần đầu ấy, cuối thu đầu đông 1984. Theo cách lãng mạn nhất, tôi, kẻ thầm yêu nước Nga qua văn chương từ lâu, nay đã được thực sự chạm mặt nước Nga như… người tình.
Lần đầu ấy, cuối thu đầu đông 1984. Theo cách lãng mạn nhất, tôi, kẻ thầm yêu nước Nga qua văn chương từ lâu, nay đã được thực sự chạm mặt nước Nga như… người tình.
Nghệ thuật múa Việt Nam từ khi hình thành đã mang dấu ấn của cư dân nông nghiệp gắn bó với thiên nhiên, muông thú với các vũ điệu tả cảnh sản xuất, săn bắn.
Không cần gắn với ballet, bản thân âm nhạc của Kẹp hạt dẻ cũng đã chứa đựng những giá trị vô cùng to lớn về mặt nghệ thuật.
Kịch nói vào Việt Nam những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20 như là kết quả của quá trình tiếp nhận ảnh hưởng trực tiếp từ nền sân khấu Pháp.
Trong nghệ thuật tuồng, qua màu sắc trên gương mặt được hoá trang, khán giả biết ngay tâm lý, tính cách, giai cấp xã hội của nhân vật khi vừa bước ra sân khấu.
Cha ông ta đã để lại một kho tàng nghệ thuật sân khấu vô cùng quý giá với tuồng, chèo, cải lương… Những vở diễn thuộc các bộ môn này trong các thập niên 1970-1980 đã làm rung động hàng triệu trái tim người xem.
Tại hai khu kịch nghệ lớn hàng đầu thế giới – Broadway (Mỹ) và West End (Anh), trong suốt ba thập kỷ qua, sức hấp dẫn của “Miss Saigon” vẫn chưa ngừng lại, các suất diễn vẫn tiếp tục được thực hiện qua nhiều năm tháng.
Sân khấu có mặt trong mọi nền văn hóa khác nhau: trong cái xã hội được gọi là nguyên thủy, dù là nông nghiệp hay trồng trọt săn bắn, bắt cá; trong hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây.
Trong chuyến đi đến Đông Dương năm 1896, Barthélem chơi Tết ở Vinh. Điều ấn tượng nhất đối với vị nhà văn – quý tộc Pháp chính là những vở tuồng do Đào Tấn biên kịch và dàn dựng.
Phương pháp biểu diễn hiện thực tâm lý với những nguyên tắc sáng tạo cơ bản của Thể hệ Stanislapski đã được ứng dụng tại Việt Nam từ gần một thế kỷ nay.