Triết học Ấn Độ thống nhất trong đa dạng bởi chân lý chỉ có một nhưng chân lý đa diện và tự mỗi người cũng có thể phát hiện ra chân lý từ góc độ của mình.
Triết học Ấn Độ thống nhất trong đa dạng bởi chân lý chỉ có một nhưng chân lý đa diện và tự mỗi người cũng có thể phát hiện ra chân lý từ góc độ của mình.
Những bất công xã hội liên quan đến các đẳng cấp dưới liên tục diễn ra, bất kể ở khu vực đô thị hay nông thôn, thể hiện sự căng thẳng trong xã hội Ấn Độ hiện đại.
Kinh của Hindu giáo từng ghi rõ: “Một người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn dưới 10 tuổi cũng có thể coi là cha của một kẻ ở các đẳng cấp dưới, dầu cho kẻ ấy đã 100 tuổi”.
Kỳ diệu hóa trong miêu tả cái chết cho thấy nhân vật anh hùng của sử thi Mahabharata một mặt chịu sự ràng buộc chặt chẽ với những đam mê trần thế mãnh liệt, một mặt không nguôi vươn tới những khát vọng tâm linh huyền bí cao đẹp.
Phật Giáo ở Ấn Độ đã chết một cái chết không tự nhiên, và những nguyên do đưa đến sự biến mất của nó là những nguyên do bên ngoài hơn là bên trong.
Đạo Sikh xuất hiện vào đầu thế kỷ 16, được xem như một tôn giáo cải cách, ra đời trên cơ sở tiếp nhận tư tưởng, giáo luật, lễ nghi của các tôn giáo đã có ở Ấn Độ như Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Phật giáo.
Ba giáo lý cơ bản được gọi là Ba báu vật của dạo Jaina là: lòng tin đúng, hiểu biết đúng và hành xử đúng. Tín đồ của đạo Jaina phải tuân theo năm mahavrata (năm lời thề lớn) đó là: không làm ác, không có tài sản, không nói dối, không trộm cắp và tiết chế nhục dục.
Theo giáo lý Ấn Độ Giáo, mỗi người có một vị trí và trách nhiệm riêng biệt trong cuộc sống. Mỗi người được sinh ra ở một chỗ với những khả năng riêng biệt vì những hành động và thái độ trong quá khứ…
Nếu không kể triết phái duy vật Carvaka, thì các tôn giáo, hệ tư tưởng và triết phái ở Ấn Độ đều mang những nét chung rõ nét.
Những văn liệu được ghi chép sớm nhất ở Ấn Độ cổ đại là Rig Veda, khoảng thế kỷ 7 TCN, rồi đến các bộ Veda khác. Upanishad (“ngồi bên chân người”) triết lí của đạo Bà la môn, được viết khoảng thế kỷ 6 TCN.