Người Việt từ xưa khi đặt tên cho con thường không quên chữ đệm: “văn” cho con trai, “thị” cho con gái để phân biệt giới tính ngay trong cách gọi hàng ngày.
Người Việt từ xưa khi đặt tên cho con thường không quên chữ đệm: “văn” cho con trai, “thị” cho con gái để phân biệt giới tính ngay trong cách gọi hàng ngày.
Nguyên tắc “không chối từ, không kì thị” là một công cụ hữu hiệu cho sự hoà hợp của văn hoá, tín ngưỡng tại Việt Nam trong nhiều thế kỷ qua.
Rất dễ nuôi ảo tưởng rằng vốn trí tuệ của chúng ta dồi dào. Bốn nghìn năm lịch sử để lại cho chúng ta một chuỗi quặng tài nguyên văn hóa khổng lồ, nhưng chúng chưa thể trở thành tài sản trí tuệ.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời tháng 5/1867 tại Cù lao Ba (huyện An Phú, tỉnh An Giang ngày nay), do ông Ngô Lợi (ông còn có tên gọi khác là Ngô Viện, Cao Văn Do, Bảy Do, Năm Thiếp) sáng lập.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do ông Đoàn Minh Huyên (còn gọi là Phật Thầy Tây An) khai lập vào cuối năm 1849 tại Cốc ông Đạo Kiến (nay là Tây An cổ tự, xã Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang).
Một đĩa quả nhựa được sơn phết màu như thật, lư hương nhựa xi giả đồng, với ba cây nhang điện luôn ở trạng thái “cháy” đỏ, hai cây nến cũng là đồ điện… Việc còn lại là bật và tắt công tắc khi cần.
Mới hay, ngôn ngữ thực sự là tấm gương phản chiếu văn hóa dân tộc và tác động của luật âm dương (trong âm có dương, trong dương có âm; âm sinh dương, dương sinh âm) thật là rộng lớn và sâu xa!
Trên cái nền tảng Nho giáo, nội dung truyện Kiều còn thể hiện rõ nét tư tưởng Tam giáo đồng nguyên: Nho, Phật, Lão, một chủ trương rất sáng suốt và hòa bình của cha ông ta trong quá trình tiếp thu, chắc lọc tinh hoa văn hóa của phương Bắc.
Tục thờ hạt lúa thần, gọi vía lúa, rước lúa, cầu mưa, rước nước, tịch điền, hạ điền,… là sự biểu hiện lòng tôn kính “Thần Lúa” của người nông dân.
Trước thế kỉ 20, trống đồng, vật thể ngày nay trở thành biểu tượng của nước Việt cổ, về cơ bản không được người Việt biết đến. Sử gia Lê Tắc thời Trần thậm chí coi những tộc người dùng trống đồng là “người man”.