Người xưa bảo rằng triết học bắt đầu với sự kinh ngạc. Triết học hiện đại lại cho rằng nó bắt đầu với những kinh nghiệm khổ đau, nghi ngờ, tuyệt vọng, sợ hãi.
Người xưa bảo rằng triết học bắt đầu với sự kinh ngạc. Triết học hiện đại lại cho rằng nó bắt đầu với những kinh nghiệm khổ đau, nghi ngờ, tuyệt vọng, sợ hãi.
Hiện đại hoá và sự hình thành thời hiện đại khởi đầu ở phương Tây, rồi dần dần lan toả khắp thế giới. Là một bộ phận cơ bản của tiến trình ấy, triết học Tây phương nghiễm nhiên có vai trò đặc biệt cần khảo sát.
Trong đời sống thường nhật, đôi lúc ngồi suy niệm một mình, chúng ta cũng thường thắc mắc tự hỏi: “Khổ đau lớn nhất của đời người đến từ đâu?”.
Sự khám phá ra vô thức đã đặt nền móng cho phân tâm học. Sau đây chúng ta nhìn sơ lược qua một số chủ đề của phân tâm học trong một viễn cảnh của Duy thức học Phật giáo.
Những thông tin mà con người thường xuyên tiếp nhận tạo ra vô vàn lối mòn tư duy trong não. Những lối mòn tư duy này vừa là kinh nghiệm sống quý báu, vừa là chiếc hộp nhốt chặt tiềm năng sáng tạo và cội nguồn của tính bảo thủ, giáo điều.
Ngụy biện đã ăn sâu vào tâm thức người Việt, dường như nó là nét văn hóa, đặc biệt nhóm ngụy biện dựa vào sự duy cảm. Vì thế việc xóa bỏ nó không phải là một sớm một chiều mà phải đấu tranh liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.
“Cái tôi” là cách mỗi người tự khẳng định mình trước người khác, không muốn mình là kẻ vô hình, không muốn là người mờ nhạt,… Con người từ khi ra đời đã tồn tại cái tôi.
Con người càng lớn lên trong kỷ luật, trong tình yêu và trong kinh nghiệm sống thì hiểu biết của con người về thế giới và về vị trí của mình trong thế giới đó càng tự nhiên phát triển nhanh.
Người Phật tử nước ta nhiều khi kính lạy tượng Phật bằng đồng, bằng gỗ, cho đấy là Phật mà quên không thấy được vị Phật trong tâm mình, tức Phật tính.
Trong các trường phái triết học theo chủ nghĩa duy khoa học, trường phái có ảnh hưởng lớn và lâu nhất là chủ nghĩa thực chứng (Positivism).