Những văn kiện pháp lý quốc tế từ Tuyên bố Cairo năm 1943 đến Hội nghị Geneve năm 1954 đều đã thừa nhận chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Những văn kiện pháp lý quốc tế từ Tuyên bố Cairo năm 1943 đến Hội nghị Geneve năm 1954 đều đã thừa nhận chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Cho tới nay vẫn còn nhiều người Trung Quốc kiên trì: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi…” . Thế nhưng nguồn gốc của Đường 9 đoạn lại bị giấu kín như mèo giấu cứt!
Nước Pháp nhận thức tầm quan trọng Hoàng Sa, Trường Sa đối với phòng thủ Đông Dương, đã tiếp quản 2 quần đảo này với tư cách nhà nước bảo hộ.
Lợi dụng các khoảng trống quyền lực nước lớn tại Đông Nam Á / Biển Đông, Trung Quốc từng bước trắng trợn chiếm đoạt biển đảo của các quốc gia khác tại Biển Đông.
Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ chỉ được coi là hợp pháp khi dựa trên những cơ sở và phương thức do luật quốc tế quy định.
Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, giữ vị trí chiến lược về địa – chính trị và địa – kinh tế mà không phải quốc gia nào cũng có.
Sau khi giành quyền cai trị Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp đã có nhiều hành động cụ thể liên tục củng cố, khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
“Khoảng cách đến Đại Việt là bảy canh đường, bảy canh khoảng 700 dặm. Thời quốc vương trước, hàng năm có sai thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền thu tất vào…”.
“Xin hạm trưởng đừng ủi tàu vào đảo khí tượng. Mình sẽ bị Trung Cộng bắt làm tù binh… Xin hạm trưởng cứ lái ra biển. Tàu có chìm thì đào thoát vẫn còn cơ may sống sót. Nếu chết thì chết trên biển vẫn sướng hơn”.
Việc thất thủ Hoàng Sa là hậu quả của những đổi chác giữa Mỹ và Trung Quốc, mà chủ súy chính là cố vấn Henry Kissinger.