So với ngày nay, cái Tết ở Hà Nội một thế kỷ trước vừa có những nét rất thân thuộc, vừa có nhiều sự khác biệt lý thú.
So với ngày nay, cái Tết ở Hà Nội một thế kỷ trước vừa có những nét rất thân thuộc, vừa có nhiều sự khác biệt lý thú.
Cho đến một năm bỗng tôi bừng tỉnh, tự hỏi, nếu năm nay mình không đi Tết ai cả thì có làm sao không nhỉ. Nói là làm. Năm đó tôi không quà biếu ai cả. Rồi tôi hồi hộp chờ xem có sự cố gì xảy ra với mình không…
Con người thời nay quá dễ dãi xô bồ trong mỹ cảm. Vẻ đẹp cổ điển, vẻ đẹp chân chính mất đi, thay vào đấy là những vẻ đẹp giả tạo cố ý uốn éo chiều nịnh con người.
Tôi nhớ nhất cái Tết năm 1966, khi ấy chiến tranh phá hoại miền Bắc mở rộng, người Hà Nội đi sơ tán khỏi thủ đô. Vì bố tôi là nhà văn, nên cả cơ quan Hội nhà văn sơ tán về thôn Bài Lâm, xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa…
Nhiều năm trước, khi mới chập chững rời giảng đường đại học bước vào thế giới việc làm, tôi cũng hừng hực khí thế tham gia câu lạc bộ “bài trừ Tết”. Tết mang đến bao nhiêu phiền toái…
Theo quan niệm của người Việt, Tết là dịp lễ quan trọng nhất trong năm. Ý nghĩa thiêng liêng của những ngày Tết được thể hiện rõ trong những phong tục, những tập quán tâm linh mà người Việt lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam. Không chỉ kẻ có tiền mới chơi tranh, người ít tiền cũng có thể chơi tranh.
Hoa đào vẫn thắm đỏ như ngàn năm trước. Sao lòng người kêu Tết nhạt? Bởi, Tết nghìn năm rồi đã thành nguội nhạt hay lòng người vốn đã phai lạt, bay màu với tiền nhân?
Dù mang lại chút ít nụ cười, tôi cho rằng không nên dễ dãi chấp nhận sự cẩu thả và tùy tiện, lâu dần sẽ trở thành thói quen, khiến cho các không gian công cộng mất đi tính thẩm mỹ nên có.
Bao nhiêu bộ ngành, rồi cả xã hội tranh luận chuyện nghỉ Tết khi nào và bao lâu. Câu chuyện này thể hiện một vấn đề lớn hơn, là sự lãng phí nguồn lực và tư duy quản lý thiếu tính khoa học.