Diện mạo của chủ nghĩa tư bản hiện đại

Muốn biết thế giới này sẽ đi tới đâu thì một trong những điều cần biết phải là có nhận thức đúng về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Để thực hiện công việc khó khăn, phức tạp đó, chúng ta có thể nhìn nhận trên mấy khía cạnh.

Diện mạo của chủ nghĩa tư bản hiện đại

Thứ nhất, cần xem xét chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh thời đại chúng ta

K. Marx và F. Engels đã đưa ra một dự báo có sức thuyết phục cao về tính chất không vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản ngay khi nó đang còn non trẻ và tràn đầy nhựa sống. V.I. Lê nin cũng đã có những phát kiến mới vào thời điểm chế độ tư bản bộc lộ đường nét đầu tiên của sự rạn nứt và dấu hiệu cằn cỗi. Lenin tiên đoán khả năng xuất hiện “cơn đau đẻ” cho một xã hội mới, Người đưa ra kết luận quan trọng: chủ nghĩa tư bản dường như đã phát triển tới tột cùng, còn ánh rạng đông của Chủ nghĩa Xã hội thì bắt đầu loé sáng. Sự dự báo đó đã đúng. Thế giới đã đổi khác.

Nhưng chủ nghĩa tư bản ở những năm đầu của thế kỷ 21 đã nổi lên những hiện tượng mới, không như cách nhìn cũ của chúng ta. Chủ nghĩa tư bản tỏ ra vẫn còn sức sống nhất định. Mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản hiện không quyết liệt đến mức dẫn tới tình thế cách mạng.

Trước tình hình ấy, một số người đã sai lầm gắn nó với tính chất tiên nghiệm của quan điểm Marxist – Leninist. Họ cho rằng, sự dự báo về buổi hoàng hôn của chủ nghĩa tư bản là quá sớm, những giải thích về sự tiêu vong của nó là sai lầm. Cũng có người lại coi những biến động của Chủ nghĩa Xã hội, cũng như những thay đổi của chủ nghĩa tư bản hiện nay là ngẫu hứng của lịch sử.

Thực ra, nếu tính đến những kinh nghiệm lịch sử và những thực tế đang diễn ra của thời đại, thì mọi biểu hiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại đều có thể cắt nghĩa. Chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại. Điều này không có gì khó hiểu. Dù chúng ta lấy điểm xuất phát của nó là giai đoạn công trường thủ công vào nửa cuối thế kỷ 16, thì chế độ tư bản đến nay cũng mới tồn tại khoảng trên 450 năm, như vậy chưa phải đã lâu nếu so sánh với thời gian tồn tại của chế độ phong kiến, và trước đó là của chế độ chiếm hữu nô lệ. Bởi vậy, thái độ nôn nóng, mong đợi sự diệt vong chóng vánh của chế độ tư bản là thiếu căn cứ lịch sử.

Một điều nữa chúng ta cũng cần lưu ý: Chúng ta quả thật chưa đánh giá hết khả năng co giãn của cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa, cũng như tính linh hoạt của những người kinh doanh tư bản biết di động, tiến thoái, đồng thời vẫn còn giữ được vị trí của họ. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã đi rất xa trong quá trình toàn cầu hoá sản xuất xã hội và nhất thể hoá kinh tế. Sự điều tiết của tư bản tư nhân đối với các quá trình kinh tế quyện chặt với sự điều tiết của nhà nước tư sản thông qua công cụ luật pháp – hành chính – kinh tế – xã hội hết sức đa dạng. Một cơ chế siêu quốc gia đặc biệt, có chức năng điều tiết mâu thuẫn chính trị và kinh tế của chủ nghĩa tư bản, đã được thiết lập. Mặc dù cơ chế này chưa hoàn chỉnh, nhưng nó cũng đã góp phần giải quyết một số trục trặc của chủ nghĩa tư bản.

Vì vậy, khi đánh giá chủ nghĩa tư bản hiện đại, cần cân nhắc cả hai mặt. Một mặt, đúng là những khuyết tật của nó, những mâu thuẫn của nó, những cặn bã của nó, vẫn chưa mất đi. Nhưng mặt khác, năng lực phát triển và tự cải tạo của nó, khả năng thích ứng của nó với điều kiện mới, rõ ràng không nhỏ.

Thứ hai, về việc điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản

Nói đến điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản, trước tiên cần nhất trí việc điều chỉnh hình thức và phạm vi thống trị của nó. Không nên khẳng định rằng hiện nay, phạm vi thống trị của chủ nghĩa tư bản bị thu hẹp. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, do sự thay đổi điều kiện chính trị và kinh tế quốc tế, đặc biệt do nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc giành được độc lập chính trị, hệ thống thuộc địa cũ đã bị sụp đổ.

Nhưng các nước đế quốc đã thực hiện chính sách thực dân mới, bề ngoài công nhận độc lập chính trị của các nước vốn là thuộc địa, nhưng trên thực tế, đã dùng mọi thủ đoạn để kiểm soát gián tiếp các nước này về kinh tế và chính trị. Xuất khẩu hàng hoá, xuất khẩu tư bản, cho vay, việc trợ…. là những thủ đoạn quan trọng để các nước đế quốc mở rộng sự thâm nhập vào các nước đang phát triển. Phạm vi khống chế của chủ nghĩa tư bản, về thực chất, chưa giảm mà có phần tăng lên, nhất là sau những biến động ở Liên Xô trước đây và ở Đông Âu. Tất nhiên, sự khống chế và thống trị của chủ nghĩa tư bản hiện nay khác trước nhiều.

Yếu tố nữa cần nhận rõ là việc điều chỉnh để kéo dài sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, mà trọng tâm là điều tiết kinh tế, là sự can thiệp của nhà nước tư sản vào các quá trình kinh tế – xã hội để tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự thích nghi của những quan hệ sản xuất. Việc điều chỉnh ở đây xuất phát từ bản thân chế độ tư bản là chính. Chủ nghĩa tư bản phải cố gắng tự giải quyết một phần mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng những di chứng của nó trong lòng xã hội tư sản.

Tất nhiên, cũng cần phải hiểu mặt khác là, chủ nghĩa tư bản phải tự điều chỉnh còn do nguyên nhân bên ngoài, do điều kiện quốc tế đã thay đổi; sự xuất hiện và phát triển không ngừng của Chủ nghĩa Xã hội, sự sụp đổ nhanh chóng của hệ thống thuộc địa đã làm cho chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại tự nó nữa mà phải vì nó, muốn tồn tại được, buộc nó phải khác đi.

Nguồn gốc và hình thức của việc điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản còn liên quan chặt chẽ với những nét đặc trưng của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay. Giai cấp tư sản và chính phủ của nó phải cố gắng giải quyết một vấn đề kinh tế trọng tâm do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đặt ra; nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả sản xuất; tổ chức lại khu vực nhà nước rộng lớn để mở rộng môi trường cạnh tranh; giảm bớt mọi chi phí xã hội, kể cả những chi phí thiết yếu; kích thích các nguyên tắc tư bản chủ nghĩa hoạt động có hiệu lực.

Sự thay đổi cách thức điều chỉnh ở các nước tư bản chủ nghĩa phản ánh xu hướng thích nghi của chủ nghĩa tư bản thế giới trước tình hình mới. Trong mọi trường hợp, việc giải quyết những vấn đề gay cấn của chủ nghĩa tư bản đều được trả lời bằng chi phí lấy từ túi dân nghèo trong nước hoặc từ các nước chậm phát triển. Đó cũng là quy luật của chủ nghĩa tư bản.

Thứ ba, về mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản

Một trong những cống hiến quan trọng của K. Marx là vạch rõ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản; mâu thuẫn giữa hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với sự xã hội hoá cao của sức sản xuất. Đúng là kinh tế tư bản chủ nghĩa có những mâu thuẫn gay gắt và xã hội có nhiều đối kháng nghiêm trọng. Nhưng tới nay, chưa thể khẳng định rằng những mâu thuẫn gay gắt đó là thường xuyên liên tục và ngày càng có xu hướng tăng lên. Về cả hai mặt của mâu thuẫn cơ bản nói trên cũng đã có những biến đổi nhất định.

Thay đổi hình thức sở hữu: Sự phát triển của cơ chế chiếm hữu tư nhân từ thời tự do cạnh tranh đã dần được thay thế bằng cơ chế kinh tế có mang những yếu tố kế hoạch đáng kể. Chủ nghĩa tư bản hiện đại phải được nhìn nhận như một thực tế, trong đó sự phát triển của lực lượng sản xuất được thực hiện, các hình thức truyền thống của quan hệ sản xuất đã đan xen với các hình thức độc quyền nhà nước được sản sinh bởi quá trình xã hội hoá sản xuất. Đó chính là sự thống nhất phức tạp giữa điều chỉnh và thị trường, giữa chế độ quản lý kinh tế hỗn hợp.

Trong tiến trình xuyên quốc gia hoá và toàn cầu hóa nền kinh tế, trong việc các nhà nước tư bản tìm kiếm các biện pháp điều tiết nền kinh tế, hình thức sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã có những thay đổi đáng kể, quan hệ sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa đã được xã hội hoá hơn trước, vì thế, trong một chừng mực nhất định, có sự thích ứng hơn với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đương nhiên là vẫn tồn tại và có những mặt gay gắt nhưng ở mặt khác, mâu thuẫn đó không còn những đường nét và ranh giới rõ ràng như trước. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhà nước tư sản chiếm hữu và phân phối từ 30% – 60% thu nhập quốc dân. Đây không đơn thuần là sự chiếm hữu tư nhân nữa, mà phần nào đã mang tính chất xã hội.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận rõ, mặc dù chủ nghĩa tư bản có phần thành công nhất định trong điều tiết kinh tế nhưng cũng chỉ là thành công nhất thời. Mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa tư bản không thể thay đổi. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã khẳng định điều đó.

Thay đổi từ phía những người lao động. Khác với những năm cuối thế kỷ vừa qua, hiện nay giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, phần đông đã trả công theo giá trị sức lao động. Sở dĩ như vậy vì giai cấp tư sản có thể dùng một phần siêu lợi nhận để mua chuộc; vì phong trào công nhân có tổ chức chặt chẽ trở thành một lực lượng hùng mạnh là đối trọng đáng kể đối với giai cấp tư sản; vì để mở rộng sản xuất, chủ nghĩa tư bản cũng rất cần tăng số “cầu” của dân cư, tăng quy mô tiêu dùng cá nhân. Những điều này dẫn tới sự thay đổi đáng kể trong đời sống những người lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Tình trạng nghèo khổ vẫn còn, nhưng không phải phổ biến ở phần lớn những người công nhân làm thuê; đang phát triển một cách tự phát cái mà Lê nin gọi là “ý thức công liên chủ nghĩa”, không cảm thấy trực tiếp ách áp bức của hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Như vậy, nếu nhìn nhận một cách trực quan, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã khoác trên mình nó một bộ áo cánh mới và bộ áo cánh đó đã phần nào che đậy được một số khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản dầu sao vẫn là chủ nghĩa tư bản với bản chất xã hội mang nặng sự phi lý, là chế độ đầy rẫy bất công phi lý, mâu thuẫn. Và một điều nữa cần được khẳng định là chính những thay đổi hiện nay trong lòng chủ nghĩa tư bản cùng những thành công nhất thời trong việc tự điều chỉnh lại tạo những nhân tố và tiền đề mới cho một xã hội tương lai- xã hội phủ nhận chủ nghĩa tư bản. Quy luật phát triển xã hội chắc chắn là như vậy.

Theo GS – TS VŨ VĂN HIỀN / VOV (2010)


Tags: