Phật giáo chỉ nở rộ và đi vào xã hội phương Tây vào nửa sau của thế kỷ 20 khi nền văn minh vật chất của phương Tây rơi vào bế tắc. Người ta hướng về các truyền thống tâm linh phương Đông mong tìm lời giải đáp.
Phật giáo chỉ nở rộ và đi vào xã hội phương Tây vào nửa sau của thế kỷ 20 khi nền văn minh vật chất của phương Tây rơi vào bế tắc. Người ta hướng về các truyền thống tâm linh phương Đông mong tìm lời giải đáp.
Tôi viết bài này khi chứng kiến các hoạt động đậm màu sắc báng bổ giáo lý nhà Phật của sư Thích Trúc Thái Minh chùa Ba Vàng. Từ vụ “nữ sinh giao gà”, “oan gia trái chủ”, “khất tiền mặt” đến vụ “xá lợi tóc Phật”…
Đời là bể khổ, đúng là lời Phật dạy, nhưng lời dạy ấy mới là một nhận thức thực tại. Xử lý thực tại ấy ra sao để con người lặn trong bể khổ lại tìm ra nguồn vui, đấy mới là mục đích của người tu Phật…
Nếu mấy thứ nhảm nhí được tuyên truyền ở chùa Ba Vàng là thật, cả nhân loại không cần phải làm gì nữa, chỉ cần đến đảnh lễ, cúng dường xá lợi Phật là sống tốt trong nhiều đời, nhiều kiếp.
Phật tử đều biết câu “Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta” của Đức Phật – nhằm nhắc nhở việc tu học phải đúng chánh pháp, tránh mang mê tín đến cửa chùa.
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệ và chấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
Lòng yêu mến và sự quan tâm sâu sắc của Tagore đối với sự phục hưng của văn hoá Đạo Phật tại Ấn Độ cũng có thể coi như một lời tuyên bố của ông đối với tôn giáo này.
Sự tồn tại của linh hồn là một vấn đề phức tạp, gây nhiều tranh cãi. Phật giáo không chấp nhận có một cái linh hồn trước sau như một và càng không chấp nhận cái hồn đó đi đầu thai, như người đời lầm tưởng.
Khi ai đó làm cho ta giận thì ta khổ. Ta muốn nói một câu hay làm một việc gì đó để cho người kia khổ, nghĩ rằng làm như thế ta sẽ bớt khổ…
Thế giới quan Phật giáo thể hiện qua 4 luận thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên khởi. Tiểu luận này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về tư tưởng của Phật giáo.