Nếu không kể triết phái duy vật Carvaka, thì các tôn giáo, hệ tư tưởng và triết phái ở Ấn Độ đều mang những nét chung rõ nét.
Nếu không kể triết phái duy vật Carvaka, thì các tôn giáo, hệ tư tưởng và triết phái ở Ấn Độ đều mang những nét chung rõ nét.
Cho đến nay người ta vẫn cố gắng khám phá bí ẩn đằng sau những công trình, di sản còn lại của nền văn minh Ai Cập cổ đại kỳ bí.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ.
Nghệ thuật sân khấu Hy Lạp ra đời khoảng thể kỷ 6 trước Công nguyên. Nguồn gốc nó là ở những bài hát dithyrambe chúc tụng Tửu thần Dionysos.
Tử thư Bardo Thődol là một cuốn sách bí mật và sẽ tiếp tục bí mật, dù ta có viết gì về nó. Vì muốn hiểu được nó, ta cần có một khả năng tâm linh đặc biệt.
Những văn liệu được ghi chép sớm nhất ở Ấn Độ cổ đại là Rig Veda, khoảng thế kỷ 7 TCN, rồi đến các bộ Veda khác. Upanishad (“ngồi bên chân người”) triết lí của đạo Bà la môn, được viết khoảng thế kỷ 6 TCN.
Ngày nay, phong thủy xuất hiện cả ở những chuyện tào lao như số điện thoại, bảng hiệu quảng cáo, quần áo, túi xách, đồ trang sức, cho đến trang trí vật dụng trong nhà…
Người ta thường đồng nhất tư duy phương Đông với minh triết, nhận thức về ngã và không kham được tư duy duy lý tiêu biểu cho phương Tây. Thật ra là thế nào?
Thay vì sản sinh ra các nhà tư tưởng độc lập, nền triết học Ấn Độ là sự củng cố quan điểm truyền thống của những hệ thống triết học đặc biệt từ thế hệ này sang thế hệ khác…
Người Maya, Inca và Aztec đã tạo dựng nên ba nền văn minh cổ đại hùng mạnh, xuyên suốt vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ trong nhiều thế kỷ trước khi người phương Tây đặt chân đến khu vực này.