Cảm thụ thẩm mỹ là hoạt động mang đậm dấu ấn cái “tôi” cá nhân của chủ thể, gắn liền với những năng lực tinh thần chủ quan, với tình cảm, thị hiếu của mỗi người.
Cảm thụ thẩm mỹ là hoạt động mang đậm dấu ấn cái “tôi” cá nhân của chủ thể, gắn liền với những năng lực tinh thần chủ quan, với tình cảm, thị hiếu của mỗi người.
Hạt nhân của hệ thống mỹ học Phật giáo là thẩm mỹ của tư tưởng nhân đạo hiện thực, nhân văn. Tất cả đó đều từ con người, vì con người và về với con người.
Rung động làm ra thơ, làm ra nghệ thuật, cũng cùng loại rung động với tình yêu. Bắt đầu yêu là một niềm xao động, bắt đầu một tứ thơ cũng là một nỗi niềm, mà tôi muốn gọi là nỗi – niềm – tinh – vân.
Trong cảm quan Ấn Độ cổ đại, cái đẹp nhục cảm tồn tại phổ biến trong thế giới. Tuy nhiên, cái đẹp nhục cảm đó gắn với khả năng sinh nở của vạn vật.
Rasa (cảm thức) – dhvani (khơi gợi) – alankara (tu sức) là bộ ba khái niệm cơ bản của thi pháp học Ấn Độ cổ điển.
Cái đẹp là một đặc tính của một người, địa điểm, đối tượng, hoặc ý tưởng đưa lại một cảm nhận về niềm vui, giá trị, hoặc sự thỏa mãn. Cái đẹp được nghiên cứu như là một phần của thẩm mỹ, xã hội học, tâm lý xã hội, và văn hóa.
Chúng ta sống bao bọc bởi hình ảnh, và cần nó như cần ánh sáng để nhìn, không khí để thở. Đó chính là sự sống phản ánh vào trong con mắt ta, và đó là một nguồn thông tin quý báu, cần thiết cho cuộc sống.
Việc thiếu mục đích bên ngoài được bù lại bằng vô số những mục đích bên trong, tức là mối quan hệ giữa các bộ phận và các yếu tố của tác phẩm. Nhờ vào nghệ thuật, cá nhân con người có thể đạt đến sự tuyệt đối.
Bàn về cái đẹp, Socrate chỉ nói một tư tưởng ngắn gọn: Cần phải xây dựng được một khái niệm (ý niệm) về cái Đẹp và một cái Đẹp được coi là lý tưởng.