Một số quan điểm lý giải bản chất của cuộc xung đột Nga – Ukraina

Xung đột quân sự Nga – Ukraina – một sự kiện làm rung chuyển toàn cầu trong thời gian qua được đánh giá sẽ tác động không nhỏ tới cấu trúc an ninh khu vực châu Âu, thậm chí cả cục diện chính trị thế giới. Mọi nỗ lực ngoại giao, đàm phán đối thoại được xem là giải pháp tối ưu nhất hiện nay để có thể chấm dứt chiến sự, hạ nhiệt và tìm lối thoát cho cuộc khủng khoảng này.

Một số quan điểm về chiến lược của các bên trong xung đột Nga – Ukraina

Tác giả: TS. Phan Thị Thu Dung, Bộ Công an.

VỀ CUỘC XUNG ĐỘT NGA – Ukraina HIỆN NAY 

Cuộc khủng hoảng chính trị Nga – Ukraina hiện nay bắt nguồn từ sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh đến nay, gần hơn là năm 2014 khi Nga sáp nhập bán đảo Krym, tiếp theo là một số bất ổn ở khu vực Donbass, phía đông của Ukraina – nơi có hai nước Cộng hòa tự xưng là Donetsk (DPR) và Luhansk (LPR).

Gần đây nhất là từ cuối năm 2021 đến nay, tình hình trở nên đặc biệt căng thẳng vào thời điểm tháng 12/2021, Nga gửi đến Mỹ và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) bản đề nghị an ninh gồm 8 điểm, trong đó nêu rõ các quan ngại về an ninh được coi như những “lằn ranh đỏ”, đó là: 1) Ukraina không thể trở thành thành viên của NATO; 2) NATO không tiếp tục mở rộng sang phía đông; 3) NATO quay trở lại điểm xuất phát năm 1997, nghĩa là trước khi mở rộng sang phía đông, kết nạp các nước Đông Âu và ba nước Cộng hòa Baltic làm thành viên mới mà Nga cho là đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và lợi ích chiến lược của Nga. Sau khoảng 1 tháng rưỡi, Mỹ và NATO gửi lại bản phản hồi tới Nga kèm theo các đề nghị không được đáp ứng thỏa đáng. Theo Mỹ và NATO, tất cả quốc gia có chủ quyền như Ukraina nếu có yêu cầu về an ninh, có thể làm đơn xin gia nhập không chỉ NATO mà bất kỳ tổ chức nào khác phù hợp với lợi ích quốc gia của Ukraina. Bản phản hồi cũng nhấn mạnh, việc Nga yêu cầu NATO quay trở lại điểm xuất phát năm 1997 là không hợp lý. Điều này khiến Nga cho rằng, những đề nghị chính đáng của mình không được Mỹ và NATO coi trọng.

Xoay quanh việc Nga triển khai lực lượng quân sự lớn tới khu vực giáp biên giới với Ukraina từ cuối tháng 11/2021, ngày 22/2/2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã công bố quyết định công nhận độc lập của hai nước DPR và LPR, đồng thời điều quân đến đây để thực hiện “nhiệm vụ gìn giữ hòa bình”. Trước nguy cơ an ninh ngày càng hiện hữu sau khi Ukraina dự kiến ký kết một hiệp định quân sự chiến lược với Anh và Ba Lan, vào ngày 24/2/2022, Tổng thống Nga V. Putin tiếp tục tuyên bố mở “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở miền Đông Ukraina, nhằm đáp lại lời đề nghị hỗ trợ bảo đảm an ninh của lãnh đạo hai nước DPR và LPR.

MỘT SỐ LÝ GIẢI

Nhìn tổng quát, cuộc xung đột Nga – Ukraina hiện nay về cơ bản có thể được lý giải tiếp cận từ hai góc độ chính sau:

Thứ nhất, từ góc độ chủ nghĩa hiện thực chính trị, khi tìm hiểu về quy luật vận động và đấu tranh của nền chính trị quốc tế. Nằm trên lục địa Âu – Á, Ukraina là “vùng đệm tự nhiên” giữa Đông và Tây. Cả Nga và phương Tây đều cho rằng, bên kia là mối nguy cơ an ninh, đe dọa sự tồn tại của mình.

Theo Nga, việc Ukraina xin gia nhập NATO sẽ làm mất cân bằng cán cân quyền lực an ninh ở sườn phía tây của Nga, đe dọa đến không gian sinh tồn của nước Nga, mất vùng đệm chiến lược, suy giảm ảnh hưởng địa – chính trị từng có trong thời kỳ Liên Xô, do đó Nga phải hành động kịp thời để ngăn chặn mối nguy cơ an ninh này để duy trì “vùng đệm an ninh” sống còn, chống lại nỗ lực mở rộng ảnh hưởng về phía tây của NATO.

Trong khi đó, Mỹ và phương Tây lý giải đó là việc họ cần làm để ngăn chặn Nga nổi lên ở khu vực. Điều này sẽ đe dọa đến an ninh châu Âu (khu vực ảnh hưởng truyền thống của Mỹ), đoàn kết nội khối NATO, vai trò lãnh đạo toàn cầu và một trật tự quốc tế có lợi cho Mỹ.

Nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề Ukraina có thể kể đến cựu Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ Zbigniew Brzezinski với cuốn sách “Bàn cờ lớn” (The Grand Chessboard) và học giả người Mỹ về quan hệ quốc tế John Mearsheimer với nhiều tác phẩm, như “Cân bằng khơi xa: Đại chiến lược ưu việt của Mỹ”(1), “Đừng cung cấp vũ khí cho Ukraina”(2)…, bày tỏ rõ quan điểm rằng khi Liên Xô sụp đổ, không còn một cường quốc chi phối khu vực nào khác tồn tại, Mỹ lẽ ra nên giảm dần sự hiện diện quân sự tại đây, xây dựng quan hệ thân thiện hơn với Nga và giao trả nhiệm vụ bảo vệ an ninh châu Âu cho người châu Âu. Thay vào đó, trên thực tế Mỹ lại mở rộng NATO và “phớt lờ” các lợi ích của Nga, góp phần châm ngòi cho cuộc khủng hoảng chính trị tại Ukraina và nhiều xung đột khác. Ở góc độ tiếp cận này, sẽ thấy rõ hai khung luận điểm chính, đó là: 1) Chủ nghĩa bá quyền toàn cầu/khu vực – chính trị cường quyền; 2) Sự trở lại rõ nét của tư duy địa – chính trị trong thế kỷ XXI, nhất là tư duy về vùng đệm, sân sau, biên giới, phên giậu.

Thứ hai, từ góc độ chủ nghĩa kiến tạo và chủ nghĩa tự do – gốc rễ là sự xung đột không thể giải quyết giữa hai nền văn minh Anglo-Saxon và Slavo, là phản ứng trước sự bành trướng địa – chính trị của những người Anglo – Saxon dưới lớp vỏ lan rộng của toàn cầu hóa muốn thống trị toàn bộ châu Âu. Người Slavo cho rằng, đây là sự trở lại không gian lịch sử và vị trí của họ trên thế giới mà đại diện là Nga.

Bên cạnh đó, có thể kể đến yếu tố chủ nghĩa dân tộc của Nga với lòng tự hào, tự tôn dân tộc rất cao. Đối với Nga, tình trạng suy giảm của kinh tế – trật tự xã hội trong nước và việc Nga phải từ bỏ ảnh hưởng tại nhiều khu vực trên toàn cầu chính là hậu quả của việc Liên Xô sụp đổ. Quá khứ hào hùng của nước Nga đã tạo nên tinh thần dân tộc cao độ. Mặc dù nước Nga chịu tổn thất nặng nề về người và của trong Chiến tranh thế giới thứ hai song những đóng góp quan trọng của Nga trong việc duy trì, bảo đảm hòa bình, an ninh thế giới chính là sự khẳng định vị thế của Nga trên trường quốc tế.

Xét về góc độ lịch sử văn hóa, các nhà phân tích cho rằng xung đột quân sự Nga – Ukraina phần nào xuất phát từ tinh thần chủ nghĩa dân tộc cao ở Nga. Đồng thời, cuộc xung đột còn có thể được lý giải xuất phát từ sự bá quyền tự do của Mỹ, khiến Mỹ cam kết, xuất khẩu, phổ biến các giá trị dân chủ đến tận những nơi xa lạ, nghĩa là cần phải có lực lượng quân sự chiếm đóng đi cùng và phải luôn can thiệp vào các dàn xếp chính trị của các khu vực. Điều này thường gây ra sự chống đối của những người theo chủ nghĩa dân tộc. Nga coi việc Mỹ can thiệp và áp đặt các giá trị dân chủ, nhân quyền đối với Nga là nguy cơ gây mất ổn định chính trị nội bộ.

TÍNH TOÁN CỦA CÁC BÊN

Về phía Nga, Tổng thống Nga V. Putin khẳng định với nước Nga và toàn thế giới rằng, Ukraina không chỉ là một đất nước láng giềng mà còn là một phần không thể tách rời của lịch sử, văn hóa và không gian tinh thần Nga. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc xung đột hiện nay là do phương Tây và Ukraina không nhìn thấy hết và đáp ứng các quan ngại của Nga về an ninh quốc gia, không thấu hiểu lợi ích chiến lược của nhau và lập trường của hai bên quá xa nhau về vấn đề Ukraina. Về sâu xa, tính toán và mục tiêu của nước Nga thông qua chiến dịch quân sự tại Ukraina lần này có thể thấy nổi lên mấy điểm chính sau:

Một là, về mặt lịch sử văn hóa, các quốc gia hiện đại ngày nay, như Nga, Ukraina và Belarus đều có nguồn gốc hình thành từ Nhà nước Kievan Rus. Đây từng là một đại công quốc giàu có, thịnh vượng, hùng mạnh và lừng lẫy trong suốt một quãng thời gian dài của lịch sử thế giới, tồn tại trong khoảng 500 năm từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 13. Trung tâm kinh tế – chính trị của nhà nước này đều được đặt tại vùng đất Thánh – Kiev (thủ đô hiện tại của Ukraina). Bên cạnh nước Nga Sa hoàng, Ukraina được gọi là “Tiểu Nga”, còn Belarus mang tên “Bạch Nga”. Ba quốc gia hiện đại Nga – Ukraina – Belarus hiện nay, trên thực tế là một khối khăng khít khó có thể tách rời trong suốt chiều dài lịch sử, ba “nhánh cây đâm chồi” từ một gốc Kievan Rus.

Hai là, về mặt chính trị – an ninh – quân sự, chính quyền của Tổng thống Nga V. Putin cho rằng, hơn 30 năm qua kể từ khi Liên Xô sụp đổ, nước Nga đã bị Mỹ và các nước phương Tây đối xử không công bằng dưới nhiều hình thức, từ việc luôn mang tư tưởng thù địch với Nga, không đặt Nga ở một vị trí quan trọng trong cấu trúc an ninh mới của toàn châu Âu sau Chiến tranh lạnh, đến các vòng mở rộng NATO đe dọa không gian an ninh, phát triển của Nga, kích động các cuộc “cách mạng màu”, cấm vận Nga về kinh tế, công nghệ, tài chính…, đặc biệt là xóa bỏ nhận thức của châu Âu về công lao của Liên Xô giải phóng các dân tộc khỏi nạn diệt chủng phát-xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nga cho rằng, việc Ukraina triển khai chính sách đối ngoại thân phương Tây và gia nhập NATO sẽ khiến không gian sinh tồn của Nga ngày càng bị thu hẹp, thậm chí đe dọa sự tồn tại của Nga với tư cách là một cường quốc.

Quyết định triển khai “chiến dịch quân sự đặc biệt” tại Ukraina có thể khiến uy tín của Tổng thống Nga V. Putin giảm sút trên trường quốc tế và đối diện với các lệnh trừng phạt nặng nề chưa từng có từ Mỹ và các nước phương Tây, tuy nhiên dường như Nga đã chuẩn bị sẵn tâm lý và các phương án ứng phó, vẫn quyết tâm thực hiện “chiến dịch quân sự đặc biệt” – điều góp phần mang lại yếu tố thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của Nga, trong đó bảo đảm chắc chắn về một Ukraina trung lập, không thực hiện chính sách đối ngoại thân phương Tây. Mục tiêu sâu xa hơn của quyết định đó là đưa Ukraina trở lại phạm vi ảnh hưởng nhằm tạo sức mạnh đối trọng với NATO, tái thiết lập vùng đệm an ninh giữa Nga và phương Tây, như chiến lược trước đây Liên Xô từng theo đuổi, thiết kế lại bản đồ an ninh châu Âu và đưa Nga trở lại “bàn cờ” dành cho những siêu cường. Đồng thời, Nga muốn điều chỉnh lại những hệ quả an ninh sau cột mốc năm 1991 – thời điểm xảy ra sự kiện mà Tổng thống Nga V. Putin từng gọi là “bi kịch địa – chính trị lớn nhất thế kỷ XX”: Sự tan rã của Liên Xô.

Về phía Mỹ và phương Tâykể từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, NATO luôn xem Nga là mối đe dọa an ninh số một; còn Mỹ coi Nga và Trung Quốc là những “đối thủ cạnh tranh chiến lược” hàng đầu. Mỹ và phương Tây luôn muốn dập tắt những hy vọng của Nga trong việc phục hồi vị thế cường quốc toàn cầu của Liên Xô như trước đây thông qua quá trình “Đông tiến” của NATO. Mối quan hệ giữa Nga với Mỹ và phương Tây đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm giữa đối đầu và hòa hoãn, tuy khác nhau về mức độ nhưng bản chất vẫn là cạnh tranh chiến lược và đối kháng lợi ích, sự mở rộng ảnh hưởng của bên này, trong cách tiếp cận của bên còn lại, sẽ thu hẹp lợi ích của bên kia. Về tổng thể, Mỹ có mục tiêu chiến lược không đổi là duy trì vai trò lãnh đạo toàn cầu và một trật tự quốc tế có lợi cho Mỹ, kiềm chế và không để Nga nổi lên thách thức vị thế của Mỹ.

Cụ thể, trong cuộc khủng hoảng chính trị Nga – Ukraina, trước khi xung đột nổ ra, Mỹ và phương Tây được cho là đều có tính toán trong việc thực hiện cuộc chiến tranh thông tin, đẩy thêm căng thẳng giữa Nga với Ukraina để dễ dàng hiện thực hóa kế hoạch “phương Tây hóa Ukraina”, lôi kéo các nước có xu hướng thân Nga dựa hẳn vào Mỹ và phương Tây… Khi chiến sự bùng nổ, Mỹ và phương Tây không trực tiếp tham chiến nhưng tăng cường trợ giúp Ukraina các trang thiết bị vũ khí hiện đại, áp đặt các biện pháp cấm vận kinh tế ngặt nghèo đối với Nga… Trong tính toán của Mỹ và phương Tây, căng thẳng giữa Nga và Ukraina leo thang còn giúp Mỹ và phương Tây có thể đạt được các mục tiêu lớn tiếp theo. Cụ thể, trong trường hợp Nga “sa lầy” vào cuộc chiến, đây sẽ là cơ hội để Mỹ và phương Tây tranh thủ tái thiết cục diện an ninh châu Âu và tạo dựng các cơ chế kinh tế không có sự tham gia của Nga theo hướng có lợi cho Mỹ và phương Tây; đồng thời, làm suy giảm sức mạnh tổng hợp quốc gia của Nga trên trường quốc tế. Đối với Mỹ, bất kể cuộc xung đột vũ trang nào cũng là cơ hội giúp Mỹ thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán vũ khí cho các bên tham chiến và liên quan. Có một số ý kiến cho rằng, dường như Mỹ và phương Tây chưa thực sự muốn Ukraina gia nhập NATO, bởi vì khi Ukraina trở thành thành viên của NATO, Mỹ và NATO sẽ phải thực hiện nghĩa vụ hỗ trợ Ukraina – một đồng minh vốn không đem lại quá nhiều lợi ích thiết thân cho Mỹ và NATO. Chính vì vậy, NATO vẫn để ngỏ khả năng tổ chức này có thể kết nạp Ukraina vào thời điểm thích hợp. Tuy nhiên, đó dường như là một mũi tên trúng hai mục đích của Mỹ và phương Tây: thổi bùng thêm căng thẳng trong quan hệ Nga – Ukraina và làm suy giảm uy tín quốc tế cũng như sức mạnh tổng hợp quốc gia của Nga.

Trong trường hợp trước áp lực mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế gây thiệt hại sâu sắc, toàn diện đối với Nga, Nga chủ động giảm căng thẳng, Mỹ có thể tạo dựng được uy tín trong vai trò hòa giải xung đột và Nga phải nhượng bộ Mỹ trong giải quyết các vấn đề quốc tế khác, nhất là vấn đề liên quan đến “chảo lửa” Trung Đông. Israel là đồng minh lâu năm của Mỹ và một thực tế là giới tài phiệt cũng như những chính trị gia gốc Do Thái – ở một góc độ nào đó – có vai trò hết sức quan trọng trên chính trường Mỹ. Hỗ trợ đồng minh Israel trong cuộc xung đột ở Trung Đông chính là một trong những cơ hội mà Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng như Đảng Dân chủ cầm quyền muốn tận dụng để tranh thủ lá phiếu của cử tri gốc Do Thái trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ giữa nhiệm kỳ sắp tới. Bên cạnh đó, nếu như trước đây, nội bộ NATO và châu Âu có nhiều khác biệt trong ứng xử với Nga, thậm chí đã xuất hiện những rạn nứt nhất định xoay quanh quan điểm về Nga khi mà lợi ích giữa Nga và nhiều quốc gia trong NATO ràng buộc lẫn nhau (khoảng 40% nhập khẩu năng lượng của EU phụ thuộc vào Nga là một nhân tố không dễ bỏ qua), thì cuộc xung đột Nga – Ukraina vô hình trung đẩy Mỹ và châu Âu xích lại gần nhau với lập trường thống nhất về vấn đề Ukraina, cùng áp dụng các lệnh trừng phạt đối với Nga.

Về phía Trung Quốcvào thời điểm căng thẳng ở Ukraina và châu Âu lên cao, ngày 11/2/2022, chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden công bố Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương an toàn và thịnh vượng” với 5 ưu tiên; đồng thời, công bố chương trình hành động – đây được xem là điểm mới so với trước – nghĩa là Mỹ không chỉ có ý chí chính trị mà còn dành các nguồn lực về kinh tế, ngoại giao, quốc phòng thích đáng để hỗ trợ cho chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mới. Điều đó cho thấy, dù có những mối quan tâm ở châu Âu, nhưng khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mới là ưu tiên của chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden. Cuộc xung đột Nga – Ukraina nổ ra đã đẩy căng thẳng quan hệ Mỹ – Nga lên cao, điều này phần nào giúp giảm nhiệt cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung Quốc trong giai đoạn ngắn và trung hạn. Tuy nhiên, Trung Quốc hiểu rõ rằng, Trung Quốc mới là đối thủ cạnh tranh chiến lược hàng đầu của Mỹ mà Mỹ đã nêu đích danh trong nhiều tuyên bố và văn bản chính thức. Đối với Ukraina, Trung Quốc không có bất kỳ trách nhiệm trực tiếp, ràng buộc nào và thể hiện quan điểm trung lập. Bản chất trong quan hệ Trung Quốc – Nga và một số liên hệ với tình hình nội tại Trung Quốc từ vấn đề Ukraina có thể thấy chính sách của Trung Quốc nổi lên một số điểm chính sau:

Thứ nhất, việc ủng hộ các phong trào ly khai ở một quốc gia có chủ quyền – nhất là thông qua can thiệp quân sự – như Nga đang thực hiện đối với Ukraina, khiến Trung Quốc cảm thấy quan ngại, bởi điều này có thể đặt ra một tiền lệ tiêu cực gây ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc.

Thứ hai, mặc dù được đặc trưng bởi trạng thái hợp tác cao chưa từng có tiền lệ, song Trung Quốc và Nga là những quốc gia riêng biệt với những lợi ích riêng biệt. Đối với Trung Quốc, vốn là mục tiêu gây áp lực chính của Mỹ và phương Tây trong những năm gần đây, việc Nga bất ngờ mở “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở Ukraina sẽ khiến phương Tây chuyển sự chú ý sang châu Âu, tạo điều kiện giúp Trung Quốc có thêm không gian và thời gian để tăng cường ảnh hưởng và sức mạnh tổng hợp quốc gia, cũng như hoạch định, triển khai, thúc đẩy các kế hoạch hành động cụ thể tại khu vực.

Thứ ba, lập trường 5 điểm của Trung Quốc đối với xung đột Nga – Ukraina(3) hiện nay có thể xuất phát từ những nguyên nhân: 1) Trung Quốc muốn bảo đảm một cường quốc quân sự khác, mà cụ thể là Nga, ủng hộ mình cả về ngoại giao và kinh tế, trước bối cảnh an ninh khu vực châu Á đang diễn ra cạnh tranh gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc. Điều này đang tạo ra cho Trung Quốc những hạn chế nhất định trong việc gia tăng ảnh hưởng tại khu vực truyền thống cũng như triển khai các đại chiến lược; 2) Trung Quốc có thể vừa duy trì quan hệ, gắn kết ngày càng chặt chẽ, thậm chí nâng tầm quan hệ với Nga(4) thông qua các gói cứu trợ kinh tế, thỏa thuận thương mại song phương, vừa có thể “giữ”  EU trong “quỹ đạo kinh tế” của mình và giảm thiểu rủi ro từ các lệnh trừng phạt của phương Tây, đồng thời, có thể duy trì, bảo vệ mối quan hệ thương mại đối với Ukraina – một đối tác thương mại quan trọng của Trung Quốc, với hơn 15 tỷ USD dòng chảy thương mại song phương vào năm 2020. Ukraina cũng là “cửa ngõ” quan trọng vào châu Âu, là đối tác chính thức trong sáng kiến Vành đai, Con đường (BRI) của Trung Quốc – một nỗ lực địa – chính trị quan trọng hàng đầu mà Trung Quốc đang hướng tới(5).

Các chuyên gia cho rằng, trong thời gian tới, nhiều khả năng, Trung Quốc sẽ tiếp tục duy trì lập trường hiện nay đối với “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga tại Ukraina và theo dõi sát các diễn biến xoay quanh vấn đề này để tìm kiếm các cơ hội trong bối cảnh phức tạp hiện nay

Có thể thấy, dường như cuộc xung đột Nga – Ukraina hiện chưa có dấu hiệu giảm nhiệt, trở thành yếu tố gia tăng sự phức tạp, rối ren và khó đoán định. Việc giảm căng thẳng tại Ukraina hiện nay là một nỗ lực rất cần thiết đòi hỏi sự quyết tâm chung của các bên liên quan và của cả cộng đồng quốc tế, nhằm hướng tới thúc đẩy xây dựng lòng tin cũng như xây dựng một cấu trúc an ninh mới phù hợp, mang lại lợi ích chung, hài hòa cho các nước một cách cân bằng, hữu hiệu và bền vững.

Theo TUYÊN GIÁO

Tags: , , , ,