Một khảo sát về mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Thụy Điển

Từ thập kỷ 20 đến thập kỷ 80, Đảng Xã hội dân chủ đã xây dựng Thụy Điển từ một nước lạc hậu trở thành một nước kinh tế phát triển, đứng thứ hai trên thế giới về GDP đầu người và thứ nhất thế giới về phúc lợi xã hội, chứng tỏ sự xã hội hoá phân phối đã đạt trình độ rất cao.

Một khảo sát về mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Thụy Điển

Tác giả: Ngô Giang – giáo sư, nguyên Viện trưởng Học viện Chủ nghĩa xã hội Trung ương, thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc.

Nguồn: Chủ nghĩa Marx và Hiện thực số 3/2002, Tạp chí hai tháng một kỳ, tiếng Trung Quốc. Cơ quan chủ trì tạp chí : Cục Biên dịch thuộc Trung ương Đảng CSTQ

Vương quốc Thụy Điển nằm ở đông nam bán đảo Scandinavi thuộc Bắc Âu. Vào năm 1889, khi thành lập Đảng Xã hội Dân chủ Thụy Điển [1], vương quốc này còn là một trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, người ta gọi là nước của cướp biển, phần lớn dân vốn là cướp biển và tội phạm bị các nước Tây Âu đày đến đây cùng các hậu duệ của họ. Kinh tế Thụy Điển ngày ấy còn lạc hậu rất nhiều so với nước Nga hồi Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Từ năm 1920, khi Đảng Xã hội Dân chủ (Xã hội dân chủ) Thụy Điển bắt đầu nắm chính quyền cho tới nay, tuy có một số thời kỳ gián đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền lãnh đạo đất nước lâu hơn cả. Trong thời gian đó (từ thập kỷ 20 đến thập kỷ 80, là thời gian được tác giả khảo sát), Đảng Xã hội dân chủ đã xây dựng Thụy Điển từ một nước lạc hậu trở thành một nước kinh tế phát triển [2], đứng thứ hai trên thế giới về GDP đầu người (thứ nhất là Thuỵ-sĩ); và thứ nhất thế giới về phúc lợi xã hội, chứng tỏ sự xã hội hoá phân phối đã đạt trình độ rất cao.

Trên đây là tóm tắt nội dung chính của bài “Một số điểm chính trong bản Báo cáo khảo sát đến muộn” (sau đây viết tắt là Báo cáo Khảo sát). Tác giả báo cáo này là đồng chí Dương Khải Tiên, năm 1985 và 1988 từng hai lần đến Thụy Điển tiến hành khảo sát. Thu hoạch tổng quát của tác giả là: “Đối với chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu Thụy Điển, nhiều năm qua, chúng ta chẳng những luôn luôn cho là đối lập với quan điểm chính thống, giữ thái độ phê phán nghiêm khắc, mà thậm chí cho tới ngày nay, trong suy nghĩ của mọi người nói chung vẫn khẳng định thì ít mà phủ định thì nhiều. Thực ra, như vậy là không công bằng. Nếu phân tích một cách thực sự cầu thị, ta sẽ không khó phát hiện thấy: ngoài những vấn đề chính trị còn tranh cãi, tạm thời chưa thể đưa ra một kết luận đa số chúng ta có thể tiếp thu ra, thì thành tích của Thụy Điển về kinh tế là rất lớn, xét về những gì mà CNXH của Marx yêu cầu phải có, dù là về mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân, hoặc là về mặt thực hiện công bằng xã hội, phân phối công bằng, bảo đảm quyền lợi nên có của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.”

Bài Báo cáo Khảo sát này được đăng tải trên một tạp chí có số lượng phát hành nhỏ, và đầu đề ghi rõ là “đến muộn” (khảo sát vào thập kỷ 80 thế kỷ XX mà đến tháng 3.2002 mới được sửa chữa cho đăng). Điều đó nói lên, cho tới nay, vấn đề tiến lên mô hình CNXH kiểu Thụy Điển vẫn là một đề tài nhạy cảm. Theo tôi, Báo cáo Khảo sát đã đăng báo rồi, hơn nữa ngày nay xem ra vấn đề này thực sự không cần phải né tránh; thế thì ta hoàn toàn có thể thảo luận và bình phẩm bài báo đó một cách công bằng ngay thẳng, thực sự cầu thị, nhất là về mặt lý luận.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ PHÁC THẢO LÝ LUẬN VỀ HAI MÔ HÌNH TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Về lý luận, trước hết hãy nên bắt đầu nói về tình hình từ cách mạng Pháp 1848 – 1850 cho tới sau Công xã Pa-ri. Như vậy, chúng ta sẽ phải ra ngoài đề một chút, sau đó mới trở lại vấn đề mô hình CNXH Thụy Điển.

Trong một thời gian rất dài sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các nhà lý luận Liên Xô bao giờ cũng đề cao quá mức Công xã Paris, coi nó là hình mẫu cách mạng XHCN của giai cấp vô sản. Thực ra không phải là như vậy. Trong một thời gian sau năm 1848, đúng là Marx và Engels từng cho rằng đã xuất hiện tình thế cách mạng trong các nước phương Tây chủ yếu, do đó hai vị đã tích cực hoạt động vì sự nghiệp cách mạng này. Nhưng qua thất bại của cách mạng Pháp 1848-1850 và sau thực tế là các nước tư bản mấy lần bình yên vượt qua khủng hoảng kinh tế, sức sản xuất vẫn được phát triển khá, Marx và Engels bắt đầu cảm thấy sự việc không như những gì hai vị đã dự kiến ban đầu, thời cơ cách mạng vẫn còn chưa chín muồi. Năm 1850, khi tổng kết kinh nghiệm cách mạng Pháp, Marx đã chỉ rõ : “Khi sức sản xuất xã hội của giai cấp tư sản đang phát triển mạnh với tốc độ có thể đạt được trong toàn bộ phạm vi quan hệ của giai cấp tư sản, thì chưa thể nói gì đến một cuộc cách mạng thực sự.” Trong cuộc chiến tranh Phổ-Pháp năm 1871, giai cấp công nhân Paris nhân cơ hội đánh trả bọn xâm lược và chống hành vi đầu hàng của giai cấp tư sản, đã vùng lên khởi nghĩa và áp dụng các biện pháp có tính chất XHCN (hai phái lãnh đạo chính cuộc khởi nghĩa này là phái Lassan và phái Proudhon [3]). Khi đó Marx không tán thành cuộc khởi nghĩa này, cho rằng thời cơ chưa chín muồi. Nhưng sau khi công nhân Paris phát động khởi nghĩa rồi thì Marx không giội gáo nước lạnh lên họ, mà nhiệt tình ủng hộ và ca ngợi tinh thần dũng cảm của thợ thuyền Pháp, cho rằng Công xã Paris của giai cấp công nhân Pháp là người tiên phong vẻ vang của xã hội mới, sẽ mãi mãi được kính trọng. Đồng thời, Marx còn tổng kết sâu sắc các bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng công nhân đầu tiên này, đề ra không ít ý kiến chỉ đạo có ý nghĩa quan trọng. Cần vạch rõ là, khi tổng kết kinh nghiệm Công xã Paris, Marx từng nói một câu thế này: “Không phải là giai cấp công nhân muốn thực hiện một lý tưởng gì, mà chỉ muốn giải phóng những nhân tố xã hội mới được ươm trồng trong chính cái xã hội của giai cấp tư sản đang sụp đổ.” Cũng tức là nói, thời cơ cách mạng của giai cấp công nhân đã chín muồi chưa, hoặc có thể thực hiện được xã hội XHCN hay không, vấn đề này hoàn toàn quyết định bởi các nhân tố xã hội mới được uơm trồng trong xã hội tư sản (chủ yếu là sự phát triển cao của sức sản xuất, dân chủ hoá nền chính trị xã hội và toàn bộ nền văn minh đạt tới trình độ cần thiết).

Sau Công xã Paris, Marx tập trung sức lực chủ yếu vào việc hoàn thành bộ “Tư bản” và tiếp tục nghiên cứu lịch sử phát triển xã hội loài người. Phần lớn nhiệm vụ chỉ đạo thực tế phong trào cách mạng là do Engels đảm nhiệm. Năm 1883, Marx từ trần. Trách nhiệm của Engels càng nặng hơn. Không nghi ngờ gì nữa, “Chủ nghĩa Marx” mà cho tới nay ta vẫn nói, là do Marx và Engels cùng sáng lập nên. Sau Cách mạng Tháng Muời và sau khi Lenin qua đời, chúng ta lại tiếp thu từ Liên Xô cách nói “Chủ nghĩa Marx Lenin”. Cách nói này thực tế làm mờ nhạt vai trò của Engels (tuy không phủ định Engels). Tôi cho rằng, nếu Lenin còn sống, Người cũng không thể tiếp thu cách nói ấy. Tác giả Báo cáo Khảo sát cho chúng ta biết, tác giả đã nghe thấy cách nói “Chủ nghĩa Marx Engels” từ chính miệng những người của đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển. Tôi cho rằng cách nói đó là phù hợp với sự thật lịch sử. Không bao giờ được tách rời Marx và Engels kia mà ! “Chủ nghĩa Lenin” là một chuyện khác, vấn đề này ta sẽ bàn sau. Điều cần nói ở đây là, sau khi Marx qua đời, Engels đã quán triệt chủ trương cách mạng của hai người vào phong trào công nhân quốc tế như thế nào. Đây là trang sử rực rỡ nhất trong cuộc đời Engels. Trong những năm cuối đời, Engels luôn gắn liền mình với số phận của phong trào xã hội dân chủ quốc tế.

Như bạn tôi là ông Từ Lâm viết trong cuốn sách ông chủ biên Engels và thời đại hiện nay, sau khi Công xã Paris 1871 thất bại, phong trào công nhân quốc tế từng có thời gian rơi vào thoái trào, tới cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 phong trào này mới bắt đầu hoạt động hăng hái, chủ nghĩa Marx được truyền bá rộng rãi. Trên cơ sở đó, nhiều nước Âu Mỹ như Đan-mạch, Bỉ, Tây-ban-nha, Hà-lan, Italy, Na-uy, Áo, Thụy Điển, Hung-ga- ri, Đức, Pháp, Anh, Mỹ v.v… lần lượt thành lập các chính đảng công nhân. Lúc đó, các đảng này phần lớn lấy tên là đảng Xã hội dân chủ, đảng Xã hội hoặc đảng Công nhân (Công đảng), mà không lấy tên là đảng Cộng sản. Điều này có liên quan với quan điểm của Engels. Trong một bức thư gửi cho bạn vào tháng 2.1894, Engels viết: “Tôi cho rằng từ Chủ nghĩa Cộng sản hiện nay không thích hợp sử dụng phổ biến. Tốt nhất là lưu nó lại cho tới khi nào cần phải có sự biểu đạt một cách chính xác hơn hãy dùng. Cho dù tới lúc đó cũng cần phải chú thích thêm, vì trên thực tế, đã 30 năm nay không dùng từ này.” Vấn đề trên có một chút lai lịch, nay nhắc lại là không thừa. Tháng 7.1898, dưới sự đề xướng của Engels, đảng Xã hội dân chủ Đức và đảng Công nhân Pháp dẫn đầu triệu tập các đảng công nhân của 22 nước tham gia đại hội đại biểu những người XHCN quốc tế. Đó chính là tổ chức về sau được người ta gọi là “Quốc tế thứ II”. Thật ra tổ chức này rất lỏng lẻo, không lập ra bất cứ cơ quan lãnh đạo nào (trước đó, Hiệp hội Công nhân quốc tế về sau được gọi là “Quốc tế thứ I” có lập một Uỷ ban chung), ngay cả quy chế họp định kỳ cũng không có. Các đảng dự đại hội xác nhận lấy học thuyết Marx Engels làm cơ sở tư tưởng, nhưng tiến hành hoạt động một cách độc lập tự chủ. Nói đến tư tưởng chỉ đạo ngày ấy, không thể không nhắc tới bài viết năm 1894 của Engels (một năm trước ngày qua đời) “Lời nói đầu cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ năm 1848 đến năm 1850 của Karl Marx”. Khi đề cập tới các sai lầm của Marx và Engels trong dự kiến tình hình cách mạng từ 1848 trở đi, bài này viết: “Lịch sử cho thấy chúng tôi cũng từng sai lầm, để lộ ra cách nhìn của chúng tôi lúc đó chỉ là ảo tưởng.” “Lịch sử thể hiện rõ là tình trạng phát triển kinh tế ở đại lục châu Âu ngày ấy còn xa mới chín muồi tới trình độ có thể quét sạch nền sản xuất tư bản”, chủ nghĩa tư bản “còn có khả năng phát triển rất lớn”. Căn cứ vào điều kiện lúc đó, đặc biệt là kinh nghiệm mới nhất của đảng Xã hội dân chủ Đức, Engels đã suy xét lại sách lược đấu tranh của giai cấp công nhân, nhấn mạnh đề ra chủ trương giai cấp công nhân nên lấy việc sử dụng quyền bỏ phiếu bầu cử làm “vũ khí mới – một trong những thứ vũ khí sắc bén nhất”, và nói rõ: “Từ lâu, Tuyên ngôn của đảng Cộng sản từng tuyên bố, giành lấy quyền bỏ phiếu, giành dân chủ, là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giai cấp vô sản chiến đấu.” Đồng thời tuyên bố các đồng chí chúng ta tuyệt đối không vì thế mà “vứt bỏ quyền làm cách mạng (Engels nói rõ : dĩ nhiên, điều đó bao gồm quyền làm cách mạng bạo lực – chú thích của Ngô Giang). Cần biết rằng, quyền làm cách mạng bao giờ cũng là ’quyền lợi lịch sử’ chân chính duy nhất.”

Sau khi Engels qua đời, Liebknecht [4], một nhà lãnh đạo đảng Xã hội dân chủ Đức đánh giá Engels như sau: “Người vừa là người chỉ đường, lại là người dẫn đường, vừa là lãnh tụ, vừa là chiến sĩ. Ở Người thể hiện sự kết hợp lý luận với thực tiễn.” Lịch sử chứng minh sự đánh giá này là hoàn toàn công bằng.

Mấy chục năm trước và sau ngày Engels qua đời, thế giới tư bản ở vào thời kỳ phát triển bình ổn. Phần lớn các đảng công nhân Âu Mỹ đều hoạt động công khai, có thể ra sức lợi dụng vũ khí bỏ phiếu bầu cử. Bước sang thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản lại rơi vào cuộc khủng hoảng mới, dẫn đến Đại chiến lần thứ nhất. Cuộc chiến tranh này làm cho Quốc tế II bị chia rẽ mạnh – xuất hiện sự đối lập của hai phái, gọi là phái “bảo vệ tổ quốc” và phái “biến chiến tranh đế quốc thành chiến tranh cách mạng”. Lenin đề xuất chủ trương của phái thứ hai. Khi đó, ngoài nước Nga dưới sự lãnh đạo của Lenin đã tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Mười ra, các nước (hoặc vùng) Phần-lan, Đức, Áo, Hung, Italy cũng lần lượt bùng nổ cách mạng và giành được thắng lợi tạm thời, cục bộ, nhưng cuối cùng đều thất bại. Duy nhất chỉ có cách mạng XHCN Nga thành công. Do đó sinh ra tên gọi “chủ nghĩa Lenin” (viêc này xảy ra sau khi Lenin qua đời), và có sự đối lập giữa “Quốc tế II” và Quốc tế III” . Từ đó có hai phái là phái “chủ nghĩa Lenin” và phái “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Kèm theo, xuất hiện hai loại mô hình tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ở đây, ta không bàn về sự đấu tranh giữa hai phái trên (trong đó, chống chủ nghĩa xét lại là một nội dung chính), cũng không bàn về thành tích hoặc thất bại và các bài học kinh nghiêm của CNXH ở Liên xô và các nước XHCN khác cùng mô hình. Chúng tôi chỉ muốn nói khái quát về phong trào xã hội dân chủ ở Tây Âu, và cũng chỉ nói rất vắn tắt (vì ở đây cũng không bàn riêng vấn đề này, vấn đề đó cần một bài viết khác). Sau Đại chiến I, năm 1919, thành lập “Quốc tế III” (tức Quốc tế Cộng sản); năm 1923, “Quốc tế II” khôi phục hoạt động, và đổi tên là “Quốc tế đảng Xã hội” [5]. Từ đó trở đi, trong phong trào công nhân Tây Âu hình thành sự đối lập giữa hai thế lực nói trên (tức giữa một bên là các đảng Cộng sản với một bên là các đảng Xã hội dân chủ và các đảng Xã hội), nhưng ưu thế và ảnh hưởng chủ yếu là ở phía các đảng Xã hội dân chủ và đảng Xã hội, vì các đảng này không những chỉ lôi kéo được tuyệt đại đa số công nhân, mà lý luận và hoạt động của họ tương đối hợp với tâm lý của quảng đại các tầng lớp trung gian và trí thức ở các nước tư bản; giai cấp tư sản cũng tương đối có thể tiếp thu. Ở đây, ta chưa nói về tình hình phức tạp vừa đấu tranh vừa hợp tác giữa hai thế lực nói trên (trong thời gian chiến tranh chống phát xít, hợp tác là chủ yếu), mà chính bản thân các đảng tham gia phong trào xã hội dân chủ trong phạm vi của Quốc tế Xã hội (các đảng Xã hội dân chủ và các đảng Xã hội) cũng rất phức tạp. Chủ trương của các đảng này không hoàn toàn nhất trí với nhau, ngoại trừ việc tất cả đều phủ định cách mạng bạo lực và nói chung đều tiếp thu CNXH dân chủ. Lúc đầu, nhìn chung còn tuân theo cương lĩnh của đảng Xã hội dân chủ Đức được soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Engels năm 1889, khi thành lập Quốc tế II. Về sau thì mỗi đảng đi một đường: có đảng tương đối cấp tiến; có đảng tương đối ôn hoà; có đảng tiếp tục giương ngọn cờ chủ nghĩa Marx; có đảng lại vứt bỏ ngọn cờ này mà chủ trương đa nguyên hoá tư tưởng chỉ đạo (trong đó có cả chủ nghĩa Marx), và chủ trương tư tưởng XHCN bắt nguồn từ nhiều con đường; có đảng vẫn coi mình là chính đảng của giai cấp công nhân, có đảng lại nói mình là đảng của nhân dân hoặc đảng của dân tộc; có đảng chủ trương hợp tác với đảng cộng sản trong nước mình; có đảng lại phản đối sự hợp tác đó, v.v… Một số đảng đã không dưới một lần cải tổ hoặc xây dựng lại, về khuynh hướng, cũng trước sau khác nhau. Nhưng nói tổng quát, bản tuyên ngôn công bố năm 1951, khi Quốc tế Xã hội [6] tổ chức lại, về đại thể có thể coi là một khuynh hướng có tính tiêu biểu. Tuyên ngôn này viết: “Dù là người của đảng Xã hội xây dựng niềm tin của mình theo phương pháp phân tích xã hội của chủ nghĩa Marx, hoặc theo các phương pháp khác, dù là họ tiếp nhận sự gợi ý của nguyên tắc tôn giáo hoặc của nguyên tắc nhân đạo, tất cả họ đều phấn đấu vì mục tiêu chung. Mục tiêu đó là một chế độ phân phối xã hội công bằng, đời sống tốt đẹp, tự do và thế giới hoà bình.” Ở đây chưa viết rõ mục tiêu phấn đấu là chủ nghĩa xã hội, thế nhưng “Tuyên ngôn thành lập Quốc tế xã hội” hồi thập kỷ 20 thế kỷ XX từng khẳng định mục tiêu này, và nói rõ : “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là giải phóng mọi người ra khỏi sự lệ thuộc vào một thiểu số người chiếm hữu hoặc kiểm soát tư liệu sản xuất. Mục đích của nó là giao quyền kinh tế cho toàn thể nhân dân, tiến tới xây dựng một xã hội khiến cho mọi con người tự do đều có thể, với địa vị bình đẳng, cùng làm việc với nhau trong xã hội.”

Cho nên, nhìn chung, phải chăng có thể nói là: phong trào CNXH dân chủ Tây Âu (hoặc gọi là “phong trào xã hội dân chủ”, đều như nhau) hiện đang tìm kiếm một con đường khác để tiến lên CNXH (khác với con đường của Cách mạng Tháng Mười) ? Hoặc nói là, phong trào này từng bước ươm trồng các nhân tố XHCN trong cái bào thai tư bản chủ nghĩa, để bằng cách tiệm tiến (từ tích luỹ lượng biến dẫn đến chất biến từng phần, rồi đến chất biến cuối cùng) sáng tạo nên một hình thái mới của xã hội XHCN ? Theo tôi, có thể nói như vậy được. Dĩ nhiên, sự sáng tạo này thường có tính thử nghiệm, không thể bước đều nhau hoặc có xu thế tiến lên theo đường thẳng, mà tuỳ theo sự thay đổi tình hình hoặc biến đổi so sánh lực lượng có thể có lặp đi lặp lại, có lúc tiến lên, có lúc lại tụt lùi. Nhưng có một đặc điểm : khi đã tiến lên rồi thì dù cho lại tụt lùi, nhưng trận địa đã chiếm được thì thường là không bị mất toàn bộ (thí dụ : về thực hiện chính sách phúc lợi và chế độ bảo đảm đời sống). Ở đây, tôi xin nêu hai thí dụ có thể giúp nói rõ vấn đề: một là cuộc cải cách do Công đảng Anh tiến hành năm 1945, và hai là mô hình Thụy Điển.

Trong bài này chỉ xin nói vài câu về cuộc cải cách (được đảng Xã hội dân chủ gọi là cải cách dân chủ xã hội chủ nghĩa) bắt đầu tiến hành tại Anh từ 1945. Đây là cuộc cải cách cơ cấu xã hội do Công đảng Anh lãnh đạo thực hiện trong tình hình tư bản Tây Âu bị tàn phá nặng nề sau Đại chiến II. Biện pháp cải cách chủ yếu là : – thực hành quốc hữu hoá các ngành khai thác mỏ, ngân hàng phát hành, giao thông vận tải, các doanh nghiệp cung ứng địa phương và sản xuất thép, tức đưa các ngành kinh tế này vào sở hữu nhà nước tư bản, làm cho thành phần quốc doanh trong lĩnh vực kinh tế lên tới 20%; – cải tiến thuế thu nhập theo một quy chế luỹ tiến khác biệt rõ ràng giữa các cấp bực, làm cho 2/5 tổng thu nhập quốc dân thông qua hình thức thu thuế được nhà nước thực hành tái phân phối; – áp dụng phương pháp gọi là “phúc lợi toàn dân” nhằm thực hành chế độ bảo hiểm rộng rãi ốm đau, tai nạn, tuổi già, thương tật, thất nghiệp, sinh đẻ và chết đối với tất cả mọi người và thực hiện chữa bệnh không mất tiền cho toàn dân. Năm 1948, lãnh tụ Công đảng Anh là At-li tuyên bố : nước Anh đã trở thành “nhà nước phúc lợi”. Từ đó, cái tên “nhà nước phúc lợi” bắt đầu được sử dụng rộng rãi. Theo các tài liệu xác thực, ngày ấy, Xtalin có nói chuyện với nhân vật phái tả của Công đảng Anh Rat-xki, thậm chí Xtalin còn thừa nhận cuộc cải cách này có thể là một trong những con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (do đó mà năm 1951, đảng Cộng sản Liên xô từng giúp đỡ đảng Cộng sản Anh soạn thảo cương lĩnh quá độ hoà bình). Nhưng trên mặt khác, hoặc nói trên một mặt quan trọng hơn, cuộc cải cách này đồng thời lại làm ổn định trật tự tư bản chủ nghĩa từng bị phá tan (ghi chú: cuộc cải cách này hồi ấy được Mỹ kín đáo cho phép và tài trợ).

Bây giờ ta có thể trở lại bàn về mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy Điển được Báo cáo Khảo sát nói tới.

KHÁI QUÁT VÀI NÉT VỀ “CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ” THUỴ ĐIỂN

Dưới ảnh hưởng tuyên truyền của Liên Xô, lâu nay chúng ta có thành kiến rất sâu sắc về phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ Tây Âu. Thực ra, cho tới ngày Liên xô biến mất, người Liên Xô chưa bao giờ giới thiệu cho chúng ta biết một cách khách quan, trung thực về tình hình thực sự của phong trào xã hội dân chủ Tây Âu (kể cả mối quan hệ giữa các đảng cộng sản với các đảng xã hội dân chủ), không phải là “phủ định nhiều, khẳng định ít”, mà là phủ định toàn bộ. Trước hết, tôi muốn nói một điều : thật ra phong trào xã hội dân chủ Tây Âu đã phức tạp lại đa dạng, tình hình các nước không hoàn toàn giống nhau. Thụy Điển không ở vào vùng đất “trái tim” của thế giới tư bản, mà chỉ là “tứ chi” thôi (“trái tim” và “tứ chi” là cách nói của Marx), cách khá xa vùng trung tâm giành giật của các thế lực tư bản cường quyền, do đó cuộc cải cách xã hội của Thụy Điển có thể tiến hành tương đối tự chủ mà không, hoặc ít chịu sự can thiệp và ảnh hưởng của các thế lực ngoại quốc. Ở đây cần đặc biệt chỉ ra một điểm: các đảng Xã hội dân chủ, đảng xã hội, đảng công nhân thuộc “Quốc tế xã hội” thành lập năm 1923 ở châu Âu có cách giải thích về “chủ nghiã xã hội dân chủ”, trên nguyên tắc và trên nhiều mặt, khác với cách giải thích của chủ nghĩa Marx; nhất là chủ trương “đa nguyên hoá tư tưởng”. Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển tuy cũng thừa nhận đa nguyên hoá tư tưởng, nhưng họ vẫn kiên trì lấy học thuyết Marx Engels làm tư tưởng chỉ đạo chính của mình. Đây là một đặc điểm và ưu thế của họ.

Tại đây, tôi chỉ xin căn cứ vào Báo cáo Khảo sát, chia nó ra thành đề mục để trình bày, tức dùng phương pháp “chỉ thuật lại mà không viết thêm” (thuật nhi bất tác) để giới thiệu về tình hình xã hội XHCN dân chủ ở Thụy Điển mà mọi người rất muốn tìm hiểu. Tôi xin phép khuyên bạn đọc chịu khó đọc hết phần sau, chớ có bỏ qua một dịp tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội của Thụy Điển.

Về vấn đề tính chất của đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển và của xã hội Thụy Điển. Báo cáo khảo sát viết: “Lâu nay, chúng ta luôn cho rằng đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển là một đảng xét lại, xã hội Thụy Điển là một xã hội tư bản như các nước xã hội phương Tây khác. Do đó, trong quá trình khảo sát, chúng tôi đã cực kỳ thẳng thắn hỏi các bạn Thụy Điển : rốt cuộc đảng và xã hội của họ có tính chất như thế nào ? Họ trả lời rõ ràng : cho tới nay, họ vẫn tự cho rằng đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển là một chính đảng xã hội chủ nghĩa, xã hội Thụy Điển là một xã hội xã hội chủ nghĩa. Lý do chủ yếu là: xét về lịch sử đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển, năm 1889, khi thành lập đảng, họ không có cương lĩnh và điều lệ đảng của riêng mình, mà sử dụng nguyên xi cương lĩnh và điều lệ của đảng Xã hội dân chủ Đức hồi đó, do Engels sáng lập. Khi chúng tôi đến thăm Thụy Điển, tuy họ đang chuẩn bị sửa đổi lần thứ 7 cương lĩnh của đảng, nhưng các tài liệu tuyên truyền phát đi vẫn ghi rõ: cơ sở lý luận của đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển là đa nguyên, song chủ yếu là chủ nghĩa Marx Engels; cơ sở giai cấp rộng rãi, nhưng chủ yếu là giai cấp công nhân. Chỉ có điều là ghi rõ: giai cấp công nhân không những chỉ bao gồm công nhân cổ xanh mà còn gồm cả công nhân cổ trắng… Nhân vấn đề này, họ đặc biệt mời chúng tôi tới thăm Nhà Trưng bày lịch sử đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển. Nhìn thứ tự các bức ảnh được treo ở đây, có thể thấy rõ: vị trí thứ nhất là Karl Marx, thứ hai là Engels, thứ ba là Lassan [7], thứ tư là Hjalmar Branting, nhà lãnh đạo đầu tiên của đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển … Khi trao đổi ý kiến với một số nhà nghiên cứu lý luận của đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển, họ đặc biệt nhấn mạnh : chủ nghĩa xã hội mà họ nói là có điều kiện, tức là trước đó phải thêm từ “dân chủ”, nói hoàn chỉnh phải là xã hội “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Nếu không thêm từ “dân chủ”, thì họ thà để người ta nói xã hội của họ là xã hội tư bản, còn hơn là để nói là xã hội XHCN. Bởi lẽ, loại xã hội XHCN ấy đại biểu cho xã hội XHCN kiểu Liên Xô, không có sức thu hút quần chúng, nghĩa là không nhận được phiếu bầu của quần chúng, cũng tức là không thể nắm chính quyền và thực thi các chính sách XHCN.

Về tính chất nền kinh tế Thụy Điển. “Báo cáo Khảo sát” viết : “Theo cách nói của các bạn Thụy Điển, tính chất của kinh tế Thụy Điển vừa không hoàn toàn là kinh tế tư bản, vừa cũng không phải hoàn toàn là kinh tế XHCN, mà là một loại kinh tế hỗn hợp [8]. Kinh tế hỗn hợp nghĩa là: – về chế độ sở hữu thì thực hành pha trộn chế độ sở hữu công cộng và chế độ tư hữu; – về chế độ phân phối thì thực hành phân phối theo lao động kết hợp với phân phối theo vốn (tư bản); – về phương thức vận hành kinh tế thì thực hành nhà nước điều hành vĩ mô kết hợp với kinh tế thị trường. Trong đó, cốt lõi nhất là sự hỗn hợp về chế độ sở hữu, vì chỉ có làm được như thế thì mới có thể thực hiện được sự hỗn hợp về chế độ phân phối và về phương thức vận hành kinh tế. Tại sao chủ nghĩa xã hội phải thực hành kinh tế hỗn hợp ? Về vấn đề này, các bạn Thụy Điển đã dùng kinh nghiệm tự thân của đảng mình để giới thiệu cho chúng tôi biết một bài học lịch sử rất sâu sắc của họ.

“Theo giới thiệu, khi đảng Xã hội dân chủ Thuỵ- Điển thành lập năm 1889, lúc đó Thuỵ- Điển hãy còn là một trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, thậm chí dân chúng còn chưa có quyền tối thiểu là quyền bầu cử phổ thông. Vì sức sản xuất còn kém và trình độ của đảng còn thấp, nên khi đảng thành lập, họ không đưa ra được cương lĩnh của đảng, đành phải sử dụng nguyên xi cương lĩnh của đảng Xã hội dân chủ Đức hồi đó, do Engels lãnh đạo soạn thảo. Cương lĩnh này quy định rõ ràng: về chính trị, phải thông qua bầu cử dân chủ để quá độ hoà bình giành lấy chính quyền; về kinh tế, phải thực hiện chế độ sở hữu công cộng, phân phối theo lao động và quản lý có kế hoạch. Sau hơn 30 năm phấn đấu, về cách đề xuất phương thức mục tiêu đấu tranh chính trị tuy có mấy lần thay đổi, như ban đầu đề khẩu hiệu phấn đấu là “đấu tranh giành quyền bầu cử”; sau khi đã có quyền bầu cử thì sửa là “đấu tranh vì tham gia nghị viện”; sau khi đảng đã có chân trong Quốc hội rồi, lại đề xuất “đấu tranh giành đa số trong Quốc hội”. Thế nhưng, các mục tiêu kinh tế nói trên trong cương lĩnh lại không hề thay đổi. Trong cuộc bầu cử năm 1920, số nghị sĩ của hai đảng Xã hội dân chủ và đảng Nhân dân (thuộc phái bảo thủ) cộng lại đã vượt quá đa số trong Quốc hội (phe đối lập chủ yếu là các nghị sĩ có liên quan tới Hoàng gia Thuỵ- điển), số ghế nghị sĩ của đảng Xã hội dân chủ nhiều hơn của đảng Nhân dân, hai đảng này đã lập chính phủ liên hợp cùng nắm chính quyền, người lãnh đạo của đảng Xã hội dân chủ làm Thủ tướng. Do đảng Xã hội dân chủ là lực lượng chính trong chính phủ, nên đảng này có điều kiện thực thi cương lĩnh kinh tế quy định trong Cương lĩnh của đảng, bắt đầu dùng biện pháp thu mua và chuộc lại để xây dựng trên cả nước một số lượng lớn các doanh nghiệp sở hữu công cộng, trong đó sở hữu nhà nước là chính. Nhưng vì chưa thể giải quyết tốt vấn đề quản lý các doanh nghiệp nên chẳng bao lâu sau, sức sống của các doanh nghiệp đó bị giảm sút, hiệu quả và lợi ích không cao, trong nền kinh tế xuất hiện những khó khăn không đáng có. Trong cuộc bầu cử năm 1924, số phiếu bầu cho đảng Xã hội dân chủ bị giảm mạnh, kết quả là đảng bị bật ra khỏi chính phủ, đảng Nhân dân có tính bảo thủ lên nắm chính quyền. Theo cách nói của các bạn Thụy Điển thì đảng đã đánh mất quyền lãnh đạo chính phủ.

“Trong tình hình đó, đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển mới bình tĩnh tổng kết bài học kinh nghiệm; qua thảo luận trong toàn đảng, họ rút ra được một kết luận rất quan trọng. Đó là: đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển là một chính đảng XHCN, do vậy phải kiên trì thực hiện CNXH; nhưng trong việc thực hiện CNXH thì xã hội hoá quyền sở hữu không phải là một vấn đề căn bản; xã hội hoá phân phối mới là vấn đề căn bản, tức thực thi phân phối công bằng của cải xã hội như thế nào để bảo đảm quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động. Lập thật nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng, nhà nước phải đầu tư rất lớn, tốn nhiều công sức nhưng hiệu suất và lợi ích đều nói chung không cao, không làm ra được nhiều của cải, nếu muốn phân phối một cách công bằng thì cũng chẳng có cơ sở vật chất kinh tế lớn mạnh để làm chỗ dựa mà phân phối. Như vậy thì không có lợi bằng biện pháp: – không lập nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng (trừ các lĩnh vực bắt buộc phải do nhà nước làm), – khuyến khích ủng hộ sự phát triển kinh tế sở hữu phi công cộng, để cho các doanh nghiệp tư nhân làm ra càng nhiều của cải càng tốt, – chính phủ thực hiện phân phối các của cải đó một cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu của người lao động.

Có thể giải quyết những vấn đề và tệ nạn phát sinh trong quá trình phát triển các doanh nghiệp tư nhân trên hai mặt sau: – sử dụng thế lực của công đoàn ở tổ chức cơ sở tiến hành đấu tranh cần thiết; – sử dụng quyền lập pháp của Quốc hội để hạn chế các tệ nạn đó ngay từ trên thượng tầng. Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển đã dựa vào kết luận này để sửa đổi lại cương lĩnh và điều lệ ban đầu của đảng, qua đó giành được sự ủng hộ của quần chúng rộng rãi. Trong cuộc bầu cử năm 1932, đảng lại giành được đa số trong Quốc hội và lại lên nắm chính quyền liên tục 44 năm liền, cho tới năm 1976 mới bị đảng Nhân dân thay thế một thời gian. Trong mấy chục năm đó, đảng Xã hội dân chủ đã xây dựng Thụy Điển từ một nước kinh tế lạc hậu nhất châu Âu trở thành nước kinh tế phát triển, đứng thứ 2 trên thế giới về GDP đầu người (thứ nhất là Thụy sĩ). Mặc dù có vài lần bị đảng Nhân dân thay thế nhưng trong phần lớn thời gian từ 1976 tới nay, đảng Xã hội dân chủ vẫn nắm chính quyền. Đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, phần phân phối đã được xã hội hoá trong toàn bộ của cải quốc dân, tính theo tỷ lệ của thu nhập tài chính của nhà nước so với GDP, đã đạt 57 58%. Nhờ đó đã có điều kiện xây dựng Thụy Điển thành nước có phúc lợi xã hội nhiều nhất thế giới, khiến cho lý thuyết xã hội hoá phân phối được vận dụng triệt để vào trong thực tiễn.”

Về nguyên tắc phân phối thực hành tại Thụy Điển. Báo cáo Khảo sát viết: “Theo các bạn Thụy Điển giới thiệu, nguyên tắc phân phối của họ là: phải vừa có lợi cho việc huy động, phát huy đầy đủ tính tích cực về mọi mặt, và nâng cao năng suất lao động, lại vừa không để xuất hiện chênh lệch phân phối quá lớn (ý nghĩa có chút giống như khẩu hiệu “ưu tiên năng suất, chiếu cố công bằng” mà Trung Quốc mấy năm nay luôn nhấn mạnh). Biện pháp chủ yếu là: trong lần phân phối đầu tiên phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên hiệu suất, nghĩa là người làm nhiều, cống hiến nhiều thì phải được phân phối nhiều; ngược lại thì chỉ được phân phối ít. Nhưng khi tái phân phối thì phải có sự điều tiết hợp lý, sao cho mức hơn kém trong phân phối cuối cùng không quá lớn. Bởi thế, cho tới nay trong cả nước Thụy Điển, chỉ có một số cực ít các nhà doanh nghiệp xuất sắc, thí dụ những người như Tổng Giám đốc hãng ô tô Volvo, mới được hưởng mức thu nhập trên 1 triệu cuaron mỗi năm; còn nhìn chung chênh lệch về thu nhập thực tế của tuyệt đại đa số là không lớn lắm [9]. Thí dụ, lương của người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ so với lương của công chức nói chung, trước khi nộp thuế chênh lệch có thể tới gấp 4-5 lần, nhưng sau khi nộp thuế, tỷ lệ chênh lệch chỉ còn bằng 2-3 lần . Điều đặc biệt là, ngoài lương ra, họ không có bất kỳ phụ cấp cấp bậc và phụ cấp chức vụ nào khác; cho nên tỷ lệ chênh lệch nói trên là rất nhỏ. Khi giới thiệu với chúng tôi, các bạn Thụy Điển nói chênh lệch thu nhập ở Thụy Điển có lẽ là nhỏ nhất thế giới. Tại Thụy Điển, cơ bản đã thanh toán xong cái gọi là sự cách biệt giữa thành thị với nông thôn, giữa công nhân với nông dân, giữa lao động trí óc với lao động chân tay. Về vấn đề này, mới đầu chúng tôi còn nửa tin nửa ngờ; nhưng sau khi quan sát thực địa một số gia đình thuộc các diện khác nhau, chúng tôi cảm thấy đúng là về đại thể là như vậy.”

Về chế độ phúc lợi ở Thụy Điển. Báo cáo khảo sát viết: “Mọi người đều biết, phúc lợi xã hội ở Thụy Điển ở mức nhiều nhất thế giới. Ngoài 4 loại bảo hiểm lớn được pháp luật qui định (như các nước Tây Bắc Âu khác): bảo hiểm hưu trí dưỡng lão, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, còn có nhiều loại hình phúc lợi xã hội khác, nhiều đến mức người ta hình dung Thụy Điển là nước mà người dân “từ khi lọt lòng đến khi chết” đều được hưởng phúc lợi. Căn cứ theo kết quả khảo sát của chúng tôi thì câu nói trên đúng là “danh bất hư truyền”. Thí dụ: (1) Chế độ dưỡng lão: người lao động về hưu được định kỳ lĩnh lương hưu đủ sống, người già yếu không tự lo liệu cuộc sống được thì có thể vào ở trong viện dưỡng lão của nhà nước, được hưởng sự chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện sống tại đây tương đương với khách sạn 3 sao. (2) Chế độ bảo hiểm thất nghiệp : nếu người lao động thất nghiệp, họ được định kỳ lĩnh tiền cứu tế thất nghiệp, được các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước miễn phí giới thiệu việc làm trong phạm vi toàn quốc. Nếu nơi làm việc mới cách xa chỗ ở hiện nay, nhà nước có thể giúp một phần kinh phí dọn nhà. (3) Chế độ giáo dục: không những tất cả mọi người đều được đi học không mất tiền suốt đời mà luật pháp còn qui định, từ nhà trẻ cho đến bậc trung học, nếu trong lớp có một học sinh người nước ngoài, thì nhà trường phải bố trí một giáo viên biết tiếng mẹ đẻ của em đó (dĩ nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi tháng phải lên lớp một số giờ nhất định bằng tiếng mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại học, từ lúc vào học cho đến lúc tốt nghiệp, tuy có qui ước số năm học nhất định nhưng pháp luật qui định, nếu học sinh nào tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được công việc thích hợp và không muốn rời nhà trường thì có thể tiếp tục học tập miễn phí. Các bạn Thụy Điển cho biết, hiện nay hầu như ở trường nào cũng có những sinh viên lớn tuổi đã học 7-8 năm hoặc hơn trong trường. (4) Chế độ sinh đẻ: phụ nữ sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có lương (12 tháng đầu hưởng 100% lương, 6 tháng cuối hưởng 90%). Nếu đến tháng thứ 18 lại có thai, sẽ tiếp tục được nghỉ tiếp hưởng 90% lương cho đến khi đứa trẻ ra đời lại được hưởng chế độ nghỉ đẻ 18 tháng. Ngoài ra, nếu người vợ làm công việc tương đối quan trọng không thể hoặc không muốn nghỉ ở nhà quá lâu như vậy, thì haivợ chồng có thể bàn bạc để chồng có thể nghỉ thay vợ. (5) Chế độ nhà tù: người bị giam giữ hoặc tội phạm đang lĩnh án được nhà nước nuôi ăn ở không mất tiền, ngoài ra, mỗi tháng còn được lĩnh một khoản tiền mặt trợ cấp tuy không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ lắm. Nhờ các khoản phúc lợi xã hội nói trên, đời sống cơ bản của mỗi người dân trong bất kỳ tình huống nào đều có sự bảo đảm cần thiết. Vì thế bộ mặt xã hội nói chung là tốt đẹp, cuộc sống yên bình, trật tự nền nếp, thực là có cái cảnh “ra đường không sợ mất cắp, đêm nằm không phải đóng cửa”. Các cán bộ sứ quán Trung quốc ở đây cho biết, mấy chục năm qua họ rất ít khi bị mất cắp .

“Dĩ nhiên sự việc nào cũng có hai mặt. Qua một số điều chúng tôi đã tiếp xúc hoặc nghe kể, chế độ phúc lợi suốt đời nói trên của Thụy Điển ít nhất cũng tồn tại các vấn đề và mâu thuẫn trên hai mặt sau. Thứ nhất, chế độ phúc lợi cao này là dựa vào chế độ thu thuế cao. Do thu thuế cao nên thu nhập tài chính nhà nước của Thụy Điển chiếm gần 60% GDP, mức cao nhất thế giới. Nghĩa là gần 3/5 của cải toàn xã hội bị nhà nước tập trung vào tay mình, tỷ lệ để lại cho các doanh nghiệp và người dân quá nhỏ, trên mức độ nhất định tất sẽ ảnh hưởng tới tính tích cực của doanh nghiệp và người lao động. Đặc biệt là thuế suất luỹ tiến của thuế thu nhập, bậc cao nhất từng dùng thuế suất trên 80% (nay vẫn trên 70%), nghĩa là gần hết số tiền mà người lao động vất vả kiếm được lại không được hưởng. Điều đó dẫn đến trường hợp khi doanh nghiệp hoặc đơn vị cần hoàn thành một công việc cần kíp thì ngoài 8 giờ làm việc ra, người lao động nói chung đều không muốn làm ngoài giờ, vì thu nhập làm thêm mình chẳng được hưởng bao nhiêu. Bất mãn nhất là những người có thu nhập cao. Thập kỷ 80, một danh thủ quần vợt nổi tiếng thế giới người Thụy Điển chỉ vì bất mãn với thuế suất quá cao của nước này mà bỏ sang Anh định cư. Thứ hai, chế độ phúc lợi cao rất dễ bị một số người lợi dụng kiếm chác những khoản lợi ích họ không đáng được hưởng. Trong thời gian thăm Thụy Điển, khi đến một gia đình công nhân được gọi là có thu nhập thấp nhất, chúng tôi đã phát hiện vấn đề đó. Gia đình này có 4 cô con gái rồi, nhưng bà chủ lại có thai tiếp. Cảm thấy rất kỳ lạ, chúng tôi hỏi ông chủ tại sao đẻ nhiều như vậy. Ông trả lời: tôi đã tính toán từ lâu, thấy để vợ ở nhà đẻ con là có lợi nhất. Chẳng những bà ấy được nghỉ 1 năm rưỡi có lương, mà khi hết thời hạn đó lại có thai nữa thì tiếp tục được nghỉ ở nhà vẫn có lương, nghĩa là bà ấy được nghỉ phép dài hạn ở nhà cai quản công việc nội trợ phức tạp. Hơn nữa, chính phủ còn khuyến khích sinh đẻ, ai có nhiều con thì được hưởng chế độ trợ cấp luỹ tiến; cứ thêm một con thì hàng tháng được trợ cấp thêm ít nhất 1000 cuaron, lại không phải đóng thuế thu nhập, như thế rõ ràng làm tăng thu nhập của nhà tôi. Khi chúng tôi hỏi: như thế, ông có bị thiệt hại gì không ? Mới đầu ông ta bảo không, nhưng sau một lúc suy nghĩ, lại bảo là cũng có thiệt ở chỗ không thể đi du lịch xa, vì vợ con lóc nhóc đông quá đi xa rất bất tiện … Câu chuyện này cho thấy, chế độ phúc lợi xã hội quá cao quá nhiều của Thụy Điển cũng cần thiết phải điều chỉnh, cải tiến hợp lý.

Về công bằng xã hội ở Thụy Điển. Báo cáo Khảo sát viết: “Qua nhiều thực tế chúng tôi đã tìm hiểu và tiếp xúc trong quá trình khảo sát, có thể nói xã hội Thụy Điển tương đối công bằng. Tuy không thể nói Thụy Điển hoàn toàn không có chế độ đặc quyền đẳng cấp, lối sống không lành mạnh và hiện tượng tham nhũng thường thấy ở nhiều nước khác, nhưng qua tai nghe mắt thấy thì các hiện tượng đó đúng là không nhiều. Tại sao xã hội Thụy Điển có thể thực hiện được tương đối công bằng ? Chủ yếu là do:

“(1). Có chế độ pháp luật hoàn thiện, có thể hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất công xã hội. Thí dụ, pháp luật quy định rõ: trừ Quốc vương ra, bất cứ ai, kể cả Thủ tướng, khi ra ngoài đều không được mang theo nhân viên bảo vệ. Chính vì thế mà Thủ tướng Thụy Điển kiêm Chủ tịch đảng Xã hội dân chủ nước này là ông Olof Palmer đã bị ám sát. Hôm đó, vào cuối năm 1988 (không lâu trước ngày chúng tôi thăm Thụy Điển), sau giờ làm việc, ông Palmer cùng vợ đi tầu điện ngầm đến xem phim ở một rạp chiếu bóng trong khu phố đông vui nhất thủ đô Stockholm. Xem phim xong, hai người ra về, khi đang đi bộ trên đường phố, sắp đến một ga tầu điện ngầm thì ông Palmer bị một kẻ lạ mặt bắn chết; nghe nói cho tới nay vẫn chưa tìm ra hung thủ. Sau vụ này, Thụy Điển mới sửa đổi luật, quy định Thủ tướng khi ra ngoài cũng có thể mang theo nhân viên bảo vệ. Khi chúng tôi đến thăm chỗ ông bị ám sát, vẫn còn thấy vết máu trên đường, thỉnh thoảng có người mang hoa đến đặt lên chỗ có vết máu tỏ lòng thương tiếc.

“Luật pháp cũng ghi rõ: trong cả nước, chỉ một số rất ít cấp lãnh đạo như Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng mới được nhà nước cấp ô tô công vụ, còn tất cả các quan chức khác chỉ được đi lại bằng các phương tiện giao thông công cộng hoặc xe tư của mình. Quy định trên không những giảm rõ rệt biên chế nhân viên cơ quan nhà nước và chi phí, mà còn ngăn chặn được tình trạng lợi dụng xe công làm việc tư, cũng như các tác phong không lành mạnh khác. “Pháp luật còn quy định rõ: trong công việc giao thiệp với khách nước ngoài, người lãnh đạo ở cấp nào thì được nhận quà tặng trị giá bao nhiêu. Chúng tôi đã có một lần tự mình thấy rõ điều này. Năm 1985, lần đầu tiên tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế đến Thụy Điển khảo sát, đơn vị đón tiếp chính về phía bạn là Bộ Công nghiệp. Trong buổi làm việc với bà Bộ trưởng Bộ này, chúng tôi có tặng bà một đôi bình hoa nhỏ Cảnh-Thái-Lam cao khoảng 7-8 tấc Anh, sản xuất tại Bắc Kinh, để làm kỷ niệm. Sau khi mở hộp giấy bọc và xem món quà, bà kinh ngạc khen: Đẹp quá ! Nhưng rồi bà lại thở dài: Rất tiếc là tôi không được mang món quà này về nhà. Lúc đó chúng tôi đều không hiểu tại sao bà lại nói thế. Khi ra về, tôi có hỏi một cán bộ Sứ quán Trung quốc cùng dự buổi tiếp hôm ấy, mới biết luật pháp Thụy Điển có quy định, lãnh đạo cấp Bộ trưởng trong hoạt động ngoại giao chỉ được nhận quà biếu có giá trị lớn nhất không quá 1500 cuaron (khoảng 180 đôla Mỹ). Loại bình hoa chúng tôi biếu, ở Bắc kinh thì không đáng bao nhiêu tiền, nhưng ở Thụy Điển thì ước tính có thể hơn 1500 cuaron. Do đó bà Bộ trưởng không thể mang về nhà, mà chỉ có thể để ở phòng làm việc. Bao giờ mãn nhiệm, giả thử Bộ trưởng mới đến có nói món quà này nếu bà thích thì lấy đi; lúc đó mới có thể đem về nhà mình.

“(2). Dư luận giám sát công khai, là biện pháp hạn chế mạnh mẽ sự phát sinh và lan tràn các hiện tượng bất công xã hội. Về mặt này, năm 1988, khi chúng tôi đến Thụy Điển và Áo khảo sát, ở cả hai nước đều gặp những chuyện cụ thể. Chúng tôi tới Thụy Điển đúng vào lúc cô con gái của một vị Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển (tương đương Uỷ viên Bộ Chính trị đảng CSTQ) và là Chủ tịch Công đoàn toàn quốc, có chuyện rắc rối: báo chí tố giác cô này chưa đủ tiêu chuẩn được phân phối nhà nhưng vẫn được chia nhà, và phê phán ông Chủ tịch Công đoàn lợi dụng đặc quyền đảng Xã hội dân chủ đang nắm chính quyền để kiếm chác lợi riêng. Vì vấn đề này, đảng Xã hội dân chủ đã tổ chức một cuộc họp báo để công khai giải thích và tỏ thái độ. Trong họp báo, ông Chủ tịch Công đoàn tuyên bố: việc này ông không được biết trước, là do con gái ông tự làm; dĩ nhiên, ông có trách nhiệm là giáo dục con chưa nghiêm, ông nhất định sẽ đôn đốc con gái trả lại nhà nước căn nhà này, và sẵn sàng nhận sự phán xử của luật pháp. Sau đó, vụ tai tiếng này mới chìm xuống.”

Về vấn đề địa vị trong xã hội của chính đảng và của người lãnh đạo. Vấn đề này được Báo cáo Khảo sát dành riêng một đoạn viết về những gì đã tìm hiểu khảo sát được : “Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các chính đảng và nguy cơ sống còn của đảng đã buộc lãnh đạo các cấp và tầng lớp công chức phải đối xử với quần chúng nhân dân bằng một thái độ bình đẳng và giải quyết các công việc xã hội theo nguyên tắc công bằng. Về chính trị, Thụy Điển thực hành cái gọi là chế độ dân chủ kiểu phương Tây, các chính đảng cạnh tranh với nhau rất gay gắt, lá phiếu bầu của quần chúng quyết định đảng nào có được lên vũ đài chính trị nắm chính quyền hay không, sự sống còn của đảng trên một mức độ lớn cũng phụ thuộc vào lá phiếu bầu cử của nhân dân. Nhà nước không cấp kinh phí vô điều kiện cho các chính đảng, nguồn kinh phí hoạt động của các đảng phải trông vào đảng phí của đảng viên nộp và các nguồn tự gây quỹ, phần khá lớn nữa là kinh phí chính phủ cấp dựa vào số lượng nghị sĩ của đảng trong Quốc hội. Đảng nào không nhận được nhiều phiếu bầu của quần chúng thì không vào được Quốc hội, do đó không có khoản kinh phí nói trên, như vậy sẽ rất khó tồn tại lâu dài.

Bởi lẽ đó, dù là nguyện vọng chủ quan thế nào đi nữa, trong mọi hoạt động, đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển đều bắt buộc phải luôn giữ cho mình một hình ảnh giầu mà không xa xỉ, bình đẳng đối xử với quần chúng, bảo đảm công bằng xã hội. Thí dụ: tuy đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển đã nhiều lần nắm chính quyền và một lần nắm chính quyền liền 44 năm, nhưng vào cuối thập kỷ 80 khi chúng tôi đến đây khảo sát, cơ quan trung ương đảng của họ vẫn chỉ có 50-60 nhân viên công tác. Tỉnh uỷ tỉnh Gotteborg chỉ có 5 6 người. Khi chúng tôi đến làm việc với họ, chỉ thấy một cán bộ làm tất cả mọi việc, từ giới thiệu tình hình, toạ đàm trao đổi ý kiến, dẫn đi tham quan các nơi, hướng dẫn du lịch, và cả việc lái xe nữa. Họ cho biết, tỉnh uỷ Gotteborg có 3 400 chi bộ phân tán trong các cộng đồng phường xã (vì pháp luật quy định không được tổ chức chi bộ đảng trong các doanh nghiệp và cơ quan đơn vị), mỗi tháng ít nhất tỉnh uỷ phải đến mỗi cơ sở 1 lần để tìm hiểu nắm tình hình, chỉ đạo công tác và truyền đạt chỉ thị của cấp trên; do đó công tác của họ rất bận. Năm 1985, khi tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế thăm Thụy Điển lần đầu, hôm đến Gotteborg đúng vào Chủ nhật, Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh cùng tổ chức chiêu đãi chúng tôi trong một pháo đài trên núi gần biên giới với Na-uy. Phòng tiệc bày biện sang trọng nhưng ăn uống rất đơn giản. Sau bữa ăn, họ mời ra quảng trường ngoài pháo đài nghe một đoàn nhạc giao hưởng vừa từ Moskva trở về biểu diễn. Khách nghe nhạc, từ toàn đoàn chúng tôi cho tới Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch HĐND tỉnh, tất cả đều không có chỗ ngồi, mà cùng đứng chung với khách du lịch suốt hơn một giờ. Trên đường về thành phố, khi ô tô chúng tôi sắp lên phà qua sông, bỗng một chiếc xe phía trước không nổ được máy. Lúc đó, Chủ tịch HĐND ngồi bên cửa xe (ông này thọt chân) và Chủ tịch tỉnh lẳng lặng xuống xe trước tiên, cùng mọi người đẩy xe cho tới lúc xe nổ máy được mới thôi. Cảnh này thật làm mọi người cảm động.

“Nguyên tắc công bằng xã hội nói trên của các bạn Thụy Điển không những chỉ thể hiện trong việc giải quyết các công việc trong nước, mà đối với các bạn nước ngoài cũng vậy. Lần đi Thụy Điển năm 1988, hôm tới Stockholm đúng vào hai ngày nghỉ cuối tuần, vì không bố trí được phòng trọ cho chúng tôi trong thành phố, họ đưa chúng tôi đến trọ tại nhà nghỉ của một công đoàn trên hòn đảo ngoài biển gần đấy. Xung quanh nhà nghỉ là cánh đồng tuyết, không có tường bao cũng chẳng có người bảo vệ, rất ít nhân viên phục vụ. Mỗi người chúng tôi được bố trí ở trong một căn phòng khoảng chục mét vuông, kể cả trưởng đoàn cũng vậy, tuy có được thêm một phòng khách cũng nhỏ như thế, chỉ vừa đủ chỗ kê mấy chiếc ghế xô pha. Nghe nói đây là căn phòng ông Carlsson, đương kim Chủ tịch đảng Xã hội dân chủ và Thủ tướng chính phủ Thụy Điển, thường đến nghỉ. Hết hai ngày cuối tuần, họ đưa chúng tôi về thành phố, bố trí trọ tại một khách sạn vừa không đồ sộ, thiết bị lại vừa chưa đạt tiêu chuẩn khách sạn ba sao ở Trung quốc. Trưởng đoàn chúng tôi cũng không được đặc cách ở phòng sang hơn, mà cũng chỉ ở một phòng tiêu chuẩn như mọi đoàn viên.

“Những người lãnh đạo Thụy Điển rất chú ý giữ gìn hình ảnh công bằng xã hội tốt đẹp nói trên, khi họ còn sống cũng như khi giải quyết việc tang lễ cho người lãnh đạo. Như ông Palmer bị ám sát năm 1988, sinh thời ông vừa là Thủ tướng và Chủ tịch đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển, mà còn là Chủ tịch Quốc tế của các đảng Xã hội, có ảnh hưởng lớn trên thế giới và ở châu Âu, có uy tín cao trong nước, cống hiến đối với đảng và với nước đều không nhỏ. Nhưng sau khi ông qua đời, người ta không dựng nhà kỷ niệm hoặc bia kỷ niệm ông, cũng không xây cất cho ông một ngôi mộ sang trọng, mà chỉ mai táng tro xương ông trong một nghĩa trang công cộng phía sau nhà thờ gần dãy phố nơi ông bị ám sát. Ngôi mộ ông là một khối hình hộp bằng đá cẩm thạch mầu đen, diện tích khoảng 4 mét vuông, trên dựng một phiến đá cao chừng 1 mét có chữ ký của Palmer. Nghe nói phiến đá này trước đây ở quê ông, mỗi lần về quê vận động tranh cử, Palmer đều đứng trên phiến đá này để diễn thuyết, nên người ta mang nó về đây để làm kỷ niệm. “

Phần trích dẫn Báo cáo khảo sát đến đây xin dừng lại, chủ yếu dùng cách sao chép. Theo tôi nghĩ, phần trích dẫn trên đã đưa ra một phác thảo khái quát để bạn đọc có thể hiểu được tình phong trào xã hội dân chủ Thụy Điển cùng các thành tựu đạt được .

CẢM TƯỞNG SAU KHI ĐỌC BÁO CÁO KHẢO SÁT

Trước hết, ta nên nhắc lại những nguyện vọng của Engels gửi gắm vào phong trào xã hội chủ nghĩa trong mấy năm cuối đời ông. Dĩ nhiên, Engels không thể thấy trước những tình hình mới sau khi chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, càng không thể dự kiến được việc Đại chiến thế giới lần I đã làm cho trọng điểm phong trào XHCN chuyển từ Tây Âu đến nước Nga và phương Đông lạc hậu về kinh tế. Sau Cách mạng Tháng Muời Nga, nhiều người đặt hy vọng vào cách mạng XHCN ở Tây Âu. Khi làn sóng cách mạng đó bị lắng xuống, vấn đề cách mạng XHCN của các nước tư bản Tây Âu nên đi con đường nào lại trở nên một vấn đề thời sự. Phong trào không thể dừng lại, nhưng rõ ràng, đường lối thì có khác với đường lối của Cách mạng Tháng Muời Nga.

Chúng ta có đầy đủ lý do để nhớ lại một sách lược quan trọng do Engels đề ra năm 1894 – cho rằng giai cấp công nhân nên “sử dụng quyền bầu cử làm một vũ khí mới của giai cấp công nhân” và nhấn mạnh “giành quyền bầu cử, giành dân chủ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giai cấp vô sản chiến đấu” – sách lược này vẫn thích hợp với nhu cầu của giai cấp công nhân đang chiến đấu trong các nước tư bản Tây Âu thời kỳ sau Đại chiến I. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Muời Nga, trên thế giới hình thành sự đối lập gay gắt giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, dĩ nhiên các đảng Xã hội dân chủ ở các nước tư bản sẽ gặp nhiều trắc trở phức tạp trong quá trình vận dụng sách lược đó; điểm này tôi đã trình bầy ở phần trên. Thế nhưng, phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Thụy Điển cùng các thành tựu của nó – như Báo cáo Khảo sát đã giới thiệu với chúng ta – ít nhất cũng cho thấy việc vận dụng sách lược nói trên vào các nước tư bản Tây Âu không phải là không thu được thành tích nào. Do đó, giờ đây ngoài việc quan tâm đến những kinh nghiệm tự thân về CNXH mà chúng ta thu được (gồm kiểm tra, tổng kết và cải cách tự thân), đồng thời ta cũng nên có thái độ khoa học, khiêm tốn khảo sát tình hình phong trào XHCN phương Tây cùng các thành quả của nó (gồm cả thất bại và thành công). Hai loại kinh nghiệm này, do tình hình mỗi nước và điều kiện lịch sử khác nhau, cố nhiên có những cái không thể so sánh được, song cũng có một số điểm nào đó có thể so sánh được hoặc có thể tham chiếu được.

Về vấn đề này, thực ra bản thân Báo cáo Khảo sát đã ghi chép lại các suy nghĩ và cảm tưởng của người khảo sát. Nay xin trích dẫn như sau : “Qua chuyến thăm này, chúng tôi đã hiểu biết tương đối nhiều và tương đối sâu về tình hình của đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển (và đảng Xã hội Áo), mọi người đều cảm thấy thu hoạch rất lớn. Thế nhưng, rốt cuộc thì CNXH kiểu Thụy Điển và CNXH kiểu Liên Xô có gì giống nhau và khác nhau ? Rốt cuộc nên phân tích và nhận thức như thế nào về mối quan hệ giữa Quốc tế II với Quốc tế III, giữa chủ nghĩa xét lại với chủ nghĩa Lenin, và giữa đảng Xã hội kiểu Thụy Điển với đảng Cộng sản kiểu Liên Xô, thì chúng tôi cảm thấy có chút khó hiểu. Bởi thế, hồi đó, sau khi thăm Thụy Điển, trên đường về nước nhân ghé qua Paris, chúng tôi đã tổ chức một cuộc toạ đàm, có mời vài đồng chí trong đại sứ quán Trung quốc tại Pháp cùng dự. Từ các phát biểu trong và ngoài toạ đàm, có thể nhận thấy có hai loại cách nói và cảm tưởng đối với các vấn đề nêu trên. Thật bất ngờ, hai loại ý kiến này không hẹn mà lại trùng hợp nhau; cho đến nay tôi vẫn cho rằng đó là những ý kiến rất đáng để chúng ta suy nghĩ sâu sắc và tham khảo.

“Một loại cảm tưởng cho rằng, đường lối cách mạng, phương châm và phương pháp cách mạng mà lý luận của Quốc tế II và lý luận của Quốc tế III cũng như đảng Xã hội kiểu Thụy Điển và đảng Cộng sản kiểu Liên Xô đã tuân theo, đều là đúng, hoặc là có lý lẽ cả; sự khác biệt giữa hai bên chủ yếu là do tình hình trong nước của mỗi bên không giống nhau. Quốc tế II và đảng Xã hội về cơ bản đại diện cho các nước tương đối phát triển về xã hội và kinh tế thời đó. Các nước này đã xây dựng được chế độ bầu cử dân chủ; mỗi chính đảng đều có thể qua bầu cử mà nắm được đa số trong nghị viện, rồi quá độ hoà bình lên nắm chính quyền, từ đó thực thi cương lĩnh và chính sách của đảng mình. Sau thập kỷ 20 thế kỷ XX, đảng Xã hội (hoặc đảng Xã hội dân chủ, Công đảng) ở phần lớn các nước châu Âu đều lên nắm chính quyền thông qua hình thức bầu cử dân chủ, thậm chí nắm chính quyền khá lâu, và thực thi các loại chính sách cải cách xã hội; tác dụng của các đảng này trong việc thúc đảy sự cải lương và phát triển kinh tế xã hội thậm chí cả chế độ chính trị ở các nước đó, là không thể bỏ qua, và là sự chứng minh hùng hồn nhất.

Quốc tế III và đảng Cộng sản về cơ bản đại diện cho một số nước kinh tế xã hội tương đối lạc hậu hồi đó. Những nước này không những chưa xây dựng được chế độ bầu cử dân chủ, mà hơn nữa, bọn phản động nắm chính quyền được vũ trang tận răng lại có quyền tự do đàn áp các lực lượng cách mạng. Tại các nước này, nếu không tiến hành đấu tranh vũ trang thì không thể nào lật đổ được ách thống trị của bọn phản động, không thể giành được chính quyền, củng cố chính quyền và thực thi cương lĩnh và chính sách XHCN. Nhưng đối với các nước đó, về tư tưởng chỉ đạo, có một điểm cần phải làm hết sức rõ : biện pháp đấu tranh vũ trang để cướp chính quyền chỉ có tác dụng “bà đỡ” đối với CNXH; đánh giá theo tiêu chuẩn và yêu cầu của CNXH Marx xít thì trên thực tế các nước này lại chưa “đạt yêu cầu” trên hai mặt cực kỳ quan trọng sau đây : (1) Chưa đạt yêu cầu về mặt: CNXH yêu cầu phát triển cao độ trình độ sức sản xuất; (2) Chưa đạt yêu cầu về mặt: CNXH yêu cầu phải có nền pháp chế dân chủ hoàn thiện. Bởi vậy sau khi chính quyền XHCN ra đời dưới sự “đỡ đẻ” của biện pháp đấu tranh vũ trang, phải hạ quyết tâm tranh thủ “học bù’ hai bài học này (đây chính là nguyên nhân Trung Quốc tự xác định mình còn đang ở trong ’giai đoạn sơ cấp của CNXH’; nhiệm vụ của giai đoạn này là để ’học bù’ hai bài học nói trên, nhằm chuẩn bị điều kiện xây dựng thành công CNXH thực sự – chú thích của Ngô Giang). Nếu có thể nhận thức như vậy về vấn đề này, thì sau khi cách mạng thành công, xây dựng được chính quyền mới rồi, trừ phi đất nước bị xâm lược, nếu không, phải tranh thủ thời cơ tập trung lực lượng học thật nhanh thật tốt hai bài “học bù” này, dựa vào tính ưu việt của chế độ XHCN sẽ có khả năng nhanh chóng đảy mạnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đuổi kịp trình độ của các nước phát triển, xây dựng thành công CNXH thật sự. Nếu không nhận thức vấn đề như vậy, mà cứ chủ quan cho rằng chỉ cần qua đấu tranh vũ trang xây dựng chính quyền mới thì mình đã là một nước XHCN “đủ tiêu chuẩn” rồi; ai không đồng ý với ý kiến đó, hoặc tỏ ý nghi ngờ gì, thì thẳng tay kiên quyết loại bỏ, đả kích thậm chí đàn áp họ. Như vậy không những rất khó xây dựng thành công CNXH “đủ tiêu chuẩn” thật sự, hơn thế còn có thể trở thành một thứ chủ nghĩa cực quyền kiểu phong kiến nửa phong kiến, như Liên Xô thời kỳ Xtalin trước đây. Cuối cùng, không những không xây dựng thành công CNXH chân chính, mà còn bị quảng đại quần chúng và cán bộ phản đối, thậm chí vứt bỏ.

Một loại cảm tưởng khác cho rằng, mối quan hệ giữa Quốc tế III với Quốc tế II, giữa đảng Cộng sản kiểu Liên Xô với đảng Xã hội kiểu Thụy Điển thì giống như mối quan hệ giữa đạo Thiên chúa với đạo Tin lành [10], “tổ tiên” của cả hai đều là một nhà. Chẳng qua, Quốc tế III và đảng Cộng sản kiểu Liên Xô chủ trương kiên trì tiến hành mọi cái theo nguyên văn lời của “tổ tiên” không sai một chữ (cách nói này có thể bàn lại: làm cách mạng XHCN tại các nước kinh tế lạc hậu thực ra đúng là không theo nguyên văn lời của “tổ tiên”; cái gọi là khuynh hướng thuyết độc tôn giáo lý cơ bản [11] thì thể hiện ở một mặt khác. Ghi chú của Ngô Giang), không được vượt qua, có chút giống như thuyết độc tôn giáo lý cơ bản người ta thường nói. Còn Quốc tế II và đảng Xã hội kiểu Thụy Điển thì chủ trương tiến cùng thời đại, căn cứ theo sự phát triển của thời đại và sự biến đổi của xã hội mà không ngừng cải cách đổi mới, nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng và thực thi ảnh hưởng và chủ trương của lý luận do ’tổ tiên’ đề xướng, từ đó giành được thắng lợi lớn hơn.”

Ngày nay, xem ra hai mô hình tiến lên chủ nghĩa xã hội nói trên đều có tính tất nhiên và tính chính đáng lịch sử. Còn nói về việc nhìn nhận hai mô hình đó và mối quan hệ giữa chúng với nhau, thì đây là một vấn đề nên xem xét thận trọng và nghiên cứu kỹ.

———————————————————

Chú thích

[1] Đúng ra phải gọi là đảng Dân chủ xã hội (tiếng Anh: Social Democratic Party), nhưng VN ta quen gọi là Xã hội dân chủ. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học (NXB Tiến bộ Matxcơva và NXB Sự thật Hà Nội, 1986. Viết tắt Sđd1) dùng “chủ nghĩa dân chủ xã hội”, nhưng có chỗ dùng “đảng Xã hội dân chủ”, có chỗ dùng “đảng Dân chủ xã hội”. Đảng Xã hội dân chủ Thuỵ điển chiếm 36,5% số đại biểu Quốc hội khoá bầu 9.1998; hiện Chủ tịch Đảng là ông Goran Persson đồng thời làm Thủ tướng chính phủ. (Trong bài này, các chú thích cuối trang đều là của người dịch).
[2] Số liệu gần đây về Thụy Điển : 449.964 km2; 8,875 triệu dân (N2001). Kinh tế N2000 tăng trưởng 4,3%. N2000, GDP tính theo sức mua : 197 tỷ USD; GDP/đầu người : 22.200 USD (so với 4000 USD của Nga N1998). Nông nghiệp chiếm 2,2% GDP, công nghiệp 27,9%, dịch vụ 69,9%. Xuất khẩu 95,5 tỷ, nhập khẩu 80 tỷ USD. Tỷ lệ lạm phát 1,2%, tỷ lệ thất nghiệp 6%. Ngân sách : thu 133 tỷ, chi 125,2 tỷ USD. Viện trợ ODA cho nước ngoài 1,7 tỷ USD (1999). 1 USD = 6,7 cuaron (kronor); 1 cuaron = 0,15 USD (N1996). Tuổi thọ trung bình 79,71 năm. N1998 có 6 triệu điện thoại và 3,8 triệu điện thoại di động; 8,25 triệu rađiô và 4,6 triệu tivi, N2000 có 4,5 triệu người dùng Internet. CIA Mỹ nhận định: Thuỵ Điển là nước “đạt được mức sống cao dưới chế độ chính trị kết hợp chủ nghĩa tư bản công nghệ cao với chế độ phúc lợi cao “(theo The World Fact Book 2001 của Cục Tình báo TƯ Mỹ CIA, Sđd2)
[3] Ferdinand Lassalle : xem chú thích 7. Pierre-Joseph Proudhon (1809-1865): “nhà chính luận Pháp, nhà xã hội học và kinh tế; nhà tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản, một trong những người sáng lập về mặt lý luận chủ nghĩa vô chính phủ.” (trích dẫn theo Tuyển tập Marx Engels, NXB Sự thật, Hà Nội 1981, viết tắt Sđd3)
[4] V. Liebknecht (1826-1900), nhà sáng lập đảng Xã hội dân chủ Đức, bạn của Marx và Engels<
[5] Bách khoa thư Xô viết (1987) gọi là Quốc tế 2 rưỡi (2 1/2).
[6] Sđd1 gọi là Quốc tế XHCN, và nhận định là “tổ chức liên hiệp quốc tế của các đảng dân chủ-xã hội, thi hành đường lối cải lương.” Đại hội I của Quốc tế này họp ở Đức tháng 7.1951, ra tuyên ngôn “Về những mục tiêu và nhiệm vụ của chủ nghĩa Xã hội dân chủ” Tính đến 11.1977, Quốc tế XHCN có 38 đảng (và 16 đảng dự thính), hai tổ chức Phụ nữ và Thanh niên, 9 tổ chức có tính liên hiệp.
[7] Ferdinand Lassalle (1825-1864), người Đức, nhà văn, người tuyên truyền cổ động cho công nhân, thuộc giai cấp tiểu tư sản; tham gia Cách mạng 1848-1849, quen biết Marx và Engels từ đó (trao đổi thư từ cho đến 1862); thành lập Hội Công nhân toàn Đức (1863) và là Chủ tịch Hội, bằng việc đó, ông đã đáp ứng nguyện vọng của các công nhân tiến bộ muốn tách khỏi giai cấp tư sản tự do về mặt tổ chức. Hệ tư tưởng “CNXH nhà nước quân chủ Phổ” đã dẫn Lassalle tới chỗ liên minh với Bismarck, do đó bị Marx phê phán. ( theo Sđd3).
[8] Năm 2001, thành phần tư nhân chiếm 90% giá trị sản xuất công nghiệp (theo Sđd2).
[9] Số liệu năm 1992 : 10% số người có thu nhập thấp nhất chiếm 3,7% tổng thu nhập toàn quốc, 10% số người có thu nhập cao nhất chiếm 20,1%. Nghĩa là chênh lệch giầu nghèo khá nhỏ so với các nước khác : chỉ số này ở Pháp là 2,5 và 24,9% (1989); ở Mỹ là 1,5 và 28,5% (1994); ở Trung quốc là 2,2 và 30,9% (1995). (theo Sđd2).
[10] Nguyên văn chữ Hán là Ki Tô giáo. Chú ý: Trung quốc quen dùng Ki Tô giáo để chỉ Tân giáo (đạo Tin lành : Protestantism. Đạo Thiên chúa: Roman Catholic).[11] Fundamentalism (các ghi chép tin theo Kinh Thánh, phủ định Thuyết Tiến hoá Darwin và các học thuyết hiện đại khác)

Theo DT

Tags: , , ,