⠀
Chuyện điệp viên Việt Cộng từng gặp Tổng thống Mỹ ở Nhà Trắng
Ít ai biết được sau khi giải phóng Phước Long ngày 6/1/1975, quân ta muốn tìm hiểu phản ứng của quân VNCH, liệu họ có kế hoạch chiếm lại Phước Long hay không, nhiệm vụ này được giao cho điệp viên chiến lược Đinh Văn Đệ dưới vỏ bọc là Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng Hạ Viện Việt Nam Cộng Hoà. Và anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này.
Đinh Văn Đệ sinh năm 1924 (Giáp Tý) tại xã Long Thuận – xã anh hùng, trước thuộc huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, cũng tại quê hương Long Thuận này đã sản sinh ra nhiều nhà tình báo.
Trong bộ quần áo dài màu trắng của một chức sắc đạo Cao Đài, ông Đinh Văn Đệ năm nay [2009] đã 85 tuổi, nhưng vẫn minh mẫn tiếp anh Nguyễn Tấn Tước và tôi với nụ cười đôn hậu dễ mến. Nhưng khi biết ý định của tôi gặp để viết về những hoạt động của anh trong sào huyệt đầu não kẻ thù, anh lắc đầu từ chối, vì anh bây giờ là người tu hành không muốn nhắc lại chuyện cũ, nhất là gần đây trên mạng có kẻ đội lốt nhà báo cách mạng công kích nói xấu anh, cho anh là kẻ phản bội chế độ Việt Nam Cộng Hoà (!).
Điều đó làm anh rất phiền lòng, anh chỉ muốn được yên tâm lo chuyện đạo (hiện nay chức danh anh trong đạo là “Đạo trưởng Thiên vương tinh”). Anh Nguyễn Tấn Tước và tôi trao đổi với anh mục đích chuyện viết không phải đề cao cá nhân anh, mà chính là muốn nhân dân hiểu thêm về ngành Tình báo – những chiến sĩ trên mặt trận thầm lặng – đã chiến đấu gian khổ hi sinh thế nào để đóng góp phần nhỏ của mình vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong suốt cuộc trường chinh vừa qua.
Cuối cùng, sau khi đắn đo suy nghĩ cân nhắc, anh đồng ý kể lại chuyện hoạt động của mình trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh trong vỏ bọc là “Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng của Hạ Viện Việt Nam Cộng Hoà”. Tôi hỏi – trong cuộc đời làm điệp viên chiến lược “luồn sâu, leo cao” của anh có những kỷ niệm gì làm anh nhớ mãi? Anh trầm ngâm: – Tôi xin kể ba việc mà tôi nhớ mãi, coi đó là những đóng góp chút ít của mình vào công cuộc giải phóng miền Nam:
1. Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh của địch…
Sau khi ta giải phóng thị xã Phước Long ngày 6/1/1975, đồng chí Phạm Hùng (Bí thư Trung Ương Cục) có hỏi bộ phận Tình báo miền liệu địch có tái chiếm Phước Long hay không để ta biết trước mà đối phó. Tôi được giao nhiệm vụ trả lời câu hỏi này.
Theo thủ tục thông thường tôi điện qua Phủ Thủ tướng mời ông Tổng trưởng Quốc Phòng qua điều trần trước với Quốc hội để trả lời tại sao mình có binh sĩ trong hệ thống phòng thủ mà lại để thất thủ vào tay Việt Cộng, lỗi tại ai? Nhiều dân biểu chất vấn rất hóc búa, thậm chí chỉ trích gay gắt, khiến ông Tổng trưởng trả lời rất vất vả. Tôi đã liệu trước tình huống này, nên sau phiên họp, tôi đến gần ông an ủi: “Tôi thấy các anh cực quá. Thôi tôi tính thế này, từ rày tôi sẽ giúp anh, anh nói bên tướng Cao Văn Viên (Bộ Tổng tham mưu) cấp cho Chủ tịch Uỷ ban Quốc Phòng một cái giấy thông hành thường trực để được ra vào bên cơ quan quốc phòng, trực tiếp hỏi Trưởng phòng hành quân để báo cáo tình hình với Quốc hội, khỏi bắt các anh đi lại điều trần vất vả” – anh Đệ cười nói tiếp – Ông Tổng trưởng quốc phòng chịu ngay. Thế là họ trúng kế, lại còn chịu ơn tôi nữa.
Có giấy thông hành trong tay, tôi qua gặp trưởng phòng hành quân may lại trúng người tôi đã quen biết cũ khi còn học ở trường võ bị Thủ Đức, nay mang quân hàm chuẩn tướng. Tôi hỏi: – Phước Long thất thủ rồi liệu có tái chiếm lại không? Anh ta vỗ vai tôi thân mật: “Đại ca đừng lo (hồi học ở Thủ Đức, đám học viên hay gọi tôi là “đại ca”). Ai dại gì kéo bộ binh lấy lại cái nơi mình phòng thủ rồi thất thủ. Tôi sẽ phục thù bằng cách khác, sẽ cho máy bay quần nát Lộc Ninh”. Tôi báo cáo tin đó về căn cứ, lãnh đạo lại hỏi có thật chắc không? Tôi đã trả lời là chắc, vì viên chuẩn tướng ấy còn cho tôi xem trên bản đồ hắn ghim cái đinh mũ tại Lộc Ninh ký hiệu oanh kích rõ ràng.
Quả nhiên vài ngày sau, máy bay địch ném bom Lộc Ninh. Vì biết trước nên ta tránh được thiệt hại, nhưng quan trọng hơn là ta yên tâm chuyển quân lên đánh trên Tây Nguyên, sau đó là tấn công Buôn Ma Thuột… Anh nhấp một ngụm nước rồi kể tiếp.
2. Trung Ương Cục ở đâu?
Việc thứ hai là lãnh đạo cứ muốn biết liệu địch có nắm được Trung Ương Cục ở đâu và động thái chuyển quân của mình không. Tôi ngẫm nghĩ kỹ rồi không đi hỏi bên Bộ Quốc Phòng mà trực tiếp khảo sát ngoài chiến trường – ta gọi là “đi thực tế” – cho chắc ăn.
Tôi điện sang Bộ Quốc Phòng đề nghị cấp cho tôi – Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng Hạ Viện – một chiếc trực thăng, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng Thượng Viện một chiếc, và cho Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng một chiếc để đi uỷ lạo binh sĩ đang tổ chức tử thủ, vì lúc này, Pleiku, Đà Nẵng đã bị ta chiếm. Đoàn bay đến Bến Cát (Bình Dương) nơi Sư Đoàn 5 đang bố trí lực lượng phòng thủ, tôi hỏi: Địch đã biết rõ ta ở đâu, còn ta có biết Trung Ương Cục của địch ở đâu không và có biết địch di chuyển thế nào không. Đến Sư Đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo ở Xuân Lộc, tôi cũng hỏi như vậy. Họ trả lời thế nào tôi cũng đều nhập tâm hết, lại được xem những bản đồ hành quân của họ.
Với vốn kiến thức quân sự đã giúp tôi tổng hợp được tình hình và cung cấp thông tin thâu nhận được ra ngoài cứ, để phân tích, vì chính tôi cũng không biết Trung Ương Cục ở đâu và quân ta di chuyển như thế nào… Chắc chắn những thông tin ấy rất bổ ích giúp ta bảo toàn ưu thế bí mật, chủ động và bất ngờ…
3. Xin viện trợ để Mỹ cắt viện trợ
Chuyện tham gia phái đoàn sang Mỹ không phải xin viện trợ bình thường mà chính là xin “viện trợ khẩn cấp”. Anh giải thích – số là sau khi tan vỡ mặt trận Tây Nguyên phải bỏ Pleiku, Đà Nẵng, tình hình quân VNCH rất nguy kịch. Tất cả đều trông chờ vào viện trợ Mỹ để cứu vãn. Thiệu vẫn ngoan cố không chịu từ chức, còn ông Kỳ vẫn hung hăng thề tử thủ, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn Martin thì hối thúc viện trợ. Chính trường bên Mỹ rất hoang mang không biết nên tiếp tục hay bỏ cuộc chiến. Chính trong tình thế đó, Sài Gòn quyết định cử phái đoàn Quốc hội sang Mỹ để vận động xin viện trợ khẩn cấp để cứu nguy.
Tôi là Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ Viện, đương nhiên phải tham gia phái đoàn. Theo chương trình, khi sang Mỹ các Nghị sĩ sẽ chia nhau làm việc và vận động “hành lang” với các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ mãi làm cách nào để vận động xin viện trợ mà kết quả lại để Mỹ “cắt viện trợ”. Quả là một công việc hết sức khó, nhưng phải làm bằng được.
Khi sang Mỹ mỗi đại biểu đều có nhân viên Đại sứ quán Việt Nam Cộng Hoà bên đó đi kèm, hớ hênh là bại lộ hay đẩy chiều hướng trái ý đồ của mình. Chính kiến thức quân sự của tôi học của Mỹ đã giúp tôi chọn cách lấy chính sự thật đang diễn ra trên chiến trường Việt Nam, hướng cho Mỹ thấy chính tình thế không thể cứu vãn được là cách thuyết phục tốt nhất để Mỹ bỏ cuộc mà mình bề ngoài vẫn tỏ ra tha thiết yêu cầu viện trợ khẩn cấp để cứu nguy.
Với cái chiêu “nói vậy mà không phải vậy”, làm cho các đại biểu trong Đoàn thấy tôi là người tận tụy yêu cầu tha thiết nhất xin viện trợ khẩn cấp để cứu chế độ Sài Gòn khỏi sụp đổ. Chính sự thông tin về chiến trường của tôi – qua cách tư duy của người Mỹ – khiến họ nản chí muốn bỏ cuộc. Tôi đưa ra hình ảnh những người lính Cộng Hòa níu càng máy bay trực thăng để trốn chạy khỏi chiến trường thì người Mỹ hiểu ngay họ phải làm gì.
Qua các cuộc vận động hành lang rồi tiếp đến là phái đoàn được Tổng thống Mỹ G. Ford mời đến gặp ở Nhà Trắng. Đây chính là phiên họp quan trọng nhất quyết định sự thành bại của chuyến đi. Mỗi đại biểu đều nói – trong đó có tôi – Tổng thống Mỹ đều lắng nghe hết, cuối cùng ông kết luận: “Thôi các vị cứ yên tâm về đi. Tôi sẽ cử một vị tướng qua thị sát tình hình rồi sẽ quyết định sau”. Nghe Tổng thống Mỹ nói như vậy, tôi hiểu ngay là Mỹ sẽ bỏ cuộc… và như vậy là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Ngay sau đó, một vị tướng được cử sang Sài Gòn với rất đông các quan chức chuyên viên Mỹ tháp tùng… để rồi cắt viện trợ. Và những gì xảy ra sau đó thì chúng ta đã biết cả rồi.
*
* *
Đã gần 34 năm trôi qua sau chiến thắng lịch sử Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như bao chiến sĩ Tình báo quân sự khác – những anh hùng trong mặt trận thầm lặng – Đinh Văn Đệ trở về cuộc sống một công dân bình thường cùng gia đình phụng sự Đạo như bao giáo sĩ Cao Đài khác. Anh không đòi hỏi sự đãi ngộ của cấp trên đối với những thành tích mà anh đã cống hiến bằng sức lực, trí tuệ cho ngành, cho cách mạng trong suốt quá trình hoạt động bí mật. Anh coi đó là phần đóng góp nhỏ nhoi của mình vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, làm tròn nhiệm vụ của người chiến sĩ vô danh. Anh không được may mắn như các đồng chí Tình báo chiến lược khác như Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và một số đồng đội khác – còn sống hay đã hy sinh – được Đảng và Nhà nước thưởng công lao một cách trang trọng… Trong thâm tâm anh thông cảm và chia sẻ niềm vui với họ.
Trong cuộc trường chinh kéo dài suốt ba mươi năm của dân tộc, đánh bại hai đế quốc hùng mạnh nhất để bảo vệ nền độc lập, thống nhất tổ quốc, đã có biết bao cán bộ chiến sĩ Tình báo hy sinh thầm lặng, thậm chí có đồng chí khi chết còn mang tiếng là “Việt gian” mà ngành không làm sao thanh minh được, chỉ có ngành và tổ quốc ghi nhận công lao của họ. Một lần nữa, tôi lại nhớ đến nhà văn Lê Tri Kỷ viết trong lời tựa quyển tiểu thuyết tình báo của ông: “Kính tặng những người chết không để lại tên, những người còn sống không muốn nêu tên”. Nhưng những đóng góp vô giá của họ vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc thì Tổ quốc và nhân dân ta không bao giờ quên, “uống nước nhớ nguồn” là một đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ xưa đến nay.
Xuân Kỷ Sửu 2009
Theo DƯƠNG LINH / TẠP CHÍ HỒN VIỆT)