Vị trí và vai trò của các chúa Trịnh trong lịch sử, văn hóa dân tộc

Khởi nghiệp từ Trịnh Kiểm đến đời chúa cuối cùng là Trịnh Bồng, trải qua 12 đời, nhà Trịnh đã có gần 250 năm trên vũ đài chính trị từ nửa đầu thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 18. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động của quốc gia Đại Việt.

Vị trí và vai trò của các chúa Trịnh trong lịch sử, văn hóa dân tộc

Mộ chúa Trịnh Tùng ở Thanh Hóa.

Vị trí, vai trò của các chúa Trịnh trong phục hưng Nhà Lê

Sau khi đánh đuổi giặc Minh xâm lược giành lại non sông cõi bờ, các vua nhà Lê Sơ đã chăm lo xây dựng đất nước hoang tàn sau hơn 20 năm đô hộ tàn bạo, hà khắc của giặc Minh.

Sau gần 80 năm thái bình thịnh trị, các vua nhà Lê Sơ lại lao vào con đường ăn chơi sa đọa. Nhiều công trình nguy nga tráng lệ được xây dựng ở Đông Kinh (Hà Nội) làm hao tổn tiền của, công sức của người dân. Lợi dụng những lục đục trong triều đình nhà Lê, Mạc Đăng Dung đã tiếm quyền năm 1527 lập nên nhà Mạc. Nguyễn Kim là một cựu thần của nhà Lê không chịu khuất phục sự thoán đoạt của nhà Mạc đã tìm đường sang Ai Lao (Lào) nhờ vua Sạ Đẩu che chở, cho mượn đất ở Sầm Châu (Sầm Nưa) để nuôi dưỡng binh sỹ, tìm con cháu nhà Lê để khôi phục lại vương triều.

Tháng giêng năm Quý Tỵ (1533) Nguyễn Kim tìm được Lê Duy Ninh và tôn lập làm vua trên đất Ai Lao, lấy niên hiệu là Nguyên Hòa (tức Lê Trang Tông). Trang Tông lên ngôi Hoàng đế đã mở đầu nghiệp Trung hưng nhà Lê. Nguyễn Kim được Trang Tông tôn làm “Đại tướng Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công Trưởng nội ngoại sự”. Nguyễn Kim một lòng phò giúp vua Lê củng cố ngai vàng qua việc vận động vua Ai Lao giúp sức và bản thân tự cầm quân đốc suất đánh dẹp quân Mạc.

Năm 1545 Nguyễn Kim bị hàng tướng Nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc giết chết. Binh quyền được trao cho Trịnh Kiểm là con rể của Nguyễn Kim một thuộc tướng dưới quyền. Trịnh Kiểm quê gốc ở làng Sóc Sơn, nhà ở làng Biện Thượng huyện Vĩnh Phúc (nay là làng Bồng Thượng, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc). Quê của Trịnh Kiểm nằm sát sông Mã. Theo truyền tụng thuở nhỏ nhà Trịnh Kiểm rất nghèo nên ông thường đi ăn trộm để nuôi mẹ. Trời phú cho Trịnh Kiểm là người nhanh nhẹn, tháo vát có sức khỏe hơn người. Căm thù quân Mạc dìm chết mẹ mình trên sông Mã, Trịnh Kiểm đã tìm đường theo Nguyễn Kim. Thấy tướng mạo, chí khí hơn người của Trịnh Kiểm, Nguyễn Kim rất ưng nên gả con gái trưởng của mình là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, phong cho Trịnh Kiểm là Dực Nghĩa hầu được cùng dự bàn, mưu tính công việc. Năm Kỷ Hợi (1539) do lập nhiều chiến công đánh thắng quân Mạc ở huyện Lôi Dương lại có công sang Ai Lao đón vua Trang Tông nên vua phong ông làm Đại tướng quân, tước quận công, lúc đó ông 37 tuổi. 6 năm sau khi bố vợ là Nguyễn Kim bị hại, ông đã kế tục sự nghiệp phò Lê từ tháng 5/1545. Tháng 8 cùng năm vua Lê cho rút quân về Thanh Hóa để củng cố lực lượng, xây dựng cơ sở kháng chiến. Vua Lê phong ông làm “Đô tướng, tiết chế các doanh quân thủy, quân bộ kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, gia phong Thái sư tước Lạng quốc công”… được vua Lê giao cho chính quyền, từ quyền quân sự ở ngoài đến sự vụ quốc gia, công việc đánh dẹp và phong tước, bổ chức đều được tùy tiện quyết định rồi tâu lên cho vua biết” (Theo Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Dẫu rằng ở vị trí dưới một người, trên rất nhiều người nhưng Trịnh Kiểm không hề tỏ ra kiêu ngạo. Khi vua Lê Trang Tông qua đời ông lại một lòng phò giúp vua Trung Tông lên ngôi khi mới 14 tuổi, rồi tiếp đó là Lê Duy Bang (Anh Tông) một vị vua đến tuổi trưởng thành nhưng chưa hề tham gia chính trị hay chiến trận. Trước trách nhiệm nặng nề của quốc gia, là người đứng đầu trăm họ lo toan việc nước, Trịnh Kiểm ngày đêm dốc lòng vì công việc không quản ngại vất vả, khó khăn. Ông tỏ rõ là một tài năng lỗi lạc trong việc sắp đặt công việc triều chính, điều binh khiển tướng đánh Đông dẹp Bắc khắp các xứ Thanh, Nghệ, Sơn Nam, Kinh Bắc để khôi phục ngai vàng chính thống cho nhà Lê. Vua Lê Anh Tông phong ông làm Thượng tướng Thái Quốc công, tôn làm Thượng phụ là sự đánh giá công bằng về tấm lòng trung nghĩa cũng như tài thao lược của ông. Sau gần 30 năm phò tá các vua Trang Tông, Trung Tông và Anh Tông tự thân đốc suất tướng sỹ giáp chiến với quân Mạc, lo củng cố, xây dựng phục hưng nhà Lê ông hầu như không được một lần an nhàn, thanh thản. Ông mất vào năm 1570 lúc 68 tuổi khi công việc dẹp Mạc chưa thành.

Trịnh Cối là con trưởng của ông đã không nối được nghiệp cha lại sinh lòng phản trắc. Vua Lê Anh Tông phong cho Trịnh Tùng là con thứ của bà Nguyễn Thị Ngọc Bảo làm “Tiết chế Trưởng quận công thống lãnh mọi binh đánh giặc” (Theo Lịch triều hiến chương loại chí). Trịnh Tùng là người tài đức hơn người, anh hùng nhất đời, có thể nối được chí của cha” (Theo Đại Việt sử ký toàn thư). Nắm trọng trách thay cha suốt từ năm 1570, trong vòng 23 năm ông đã một lòng phò tá vua Lê, củng cố triều chính, điều binh, khiển tướng xông pha đánh dẹp quân Mạc, thu lại kinh thành Thăng Long rước vua Lê ngự giá về kinh năm 1593, hoàn thành sự nghiệp mà ông ngoại mình là Triệu tổ Nguyễn Kim đã khởi xướng. Với những công lao to lớn ấy Trịnh Tùng được vua Lê Thế Tông phong Đô nguyên súy. Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An Vương. Tiếp nối Trịnh Tùng các đời chúa sau này cũng có nhiều người tài giỏi như Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương, Trịnh Doanh… song cũng có những người hèn kém như Trịnh Cán, Trịnh Tông, Trịnh Bồng.

Lịch sử xã hội Đại Việt đầu thế kỷ 16 trở đi, khi mà triều đình phong kiến Lê Sơ đã suy vi, con cháu không nối được sự nghiệp lẫy lừng của ông cha nên KT-XH đất nước khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân cực khổ. Bên cạnh đó việc nhà Mạc tiếm quyền, nạn ngoại xâm luôn rình rập thì việc nhà Trịnh có công đánh dẹp quân Mạc, phục hưng nhà Lê là công tích lớn. Con cháu nhà Lê lúc đó phần lớn không đủ đức, đủ tài nên các chúa Trịnh từng bước lấn át vua Lê là điều tất yếu xảy ra. Hoàn cảnh lịch sử thời đó đặt ra yêu cầu các chúa Trịnh phải nắm thực quyền để điều hành, quản lý mọi công việc quốc gia, song họ cũng chưa thật sự đủ tài lực để thống nhất đất nước. Trong tâm niệm của người dân đương thời ánh hào quang của nhà Lê vẫn còn phảng phất qua ca dao:

“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Con dắt, con bế, con bồng, con mang”.

Vai trò của các chúa Trịnh trong xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội

Các chúa Trịnh đã tạo nên một thể chế chính trị hết sức độc đáo trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, chính quyền vừa có cung vua, vừa có phủ chúa, cạnh tranh nhau về quyền lưu nhưng không tiêu diệt lẫn nhau, dựa vào nhau để cùng song song, tồn tại và phát triển. Công lao to lớn nhất của các chúa Trịnh được lịch sử ghi nhận là đã đóng góp quyết định cho sự nghiệp Trung hưng nhà Lê. Trong sự nghiệp trị nước, về đối nội các chúa Trịnh đã gìn giữ được kỷ cương phép nước, mặc dù thời đó nước ta chưa thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, chính trị nhưng vẫn có những bước phát triển nhất định. Trong đó hiệu quả của một số chính sách trong việc cải cách kinh tế, cải tiến bộ máy quản lý hành chính, chế độ giáo dục, thi cử và nhất là về mặt quân sự ở thời chúa Trịnh Cương, Trịnh Doanh là đáng ghi nhận.

Suốt 244 năm tồn tại của chính quyền Lê- Trịnh, là đất “quí hương” đất “thang mộc” của các dòng họ vua Lê – chúa Trịnh- chúa Nguyễn nên đất Thanh Hóa cũng được phần ưu ái. Người dân Thanh Hóa lại có truyền thống lao động cần cù nên dẫu trong cảnh chiến tranh Thanh Hóa vẫn là trung tâm kinh tế, văn hóa của đất nước. Sản xuất nông nghiệp là vùng đất có nhiều ruộng, đất ban phong, cùng sự nhũng lạm của bọn tham quan, nhưng những ghi chép của sử sách thời này cho thấy một nền sản xuất nông nghiệp khá phát triển nhất là lưu vực của các sông ở vùng thấp.

Thủ công nghiệp và thương nghiệp thời kỳ này cũng khá phát triển. Các nghề đục, chạm khắc đá, gỗ, dệt, nấu đúc đồng khá phát triển. Nghề làm gốm ở Hàm Rồng, dệt chiếu ở Nga Sơn, dệt vải lụa ở Hoằng Hóa. Thiệu Hóa đã nổi tiếng cả nước là lụa, nhiễu Hồng Đô (Thiệu Đô, Thiệu Hóa) và Phú Khê, Hoằng Hóa… Thương nghiệp có bước phát triển đáng kể qua giao lưu buôn bán giữa các vùng, miền. Các cửa lạch như Hội Triều, Lạch Bạng trở thành những thương cảng giao lưu quan trọng với nước ngoài. Các chợ huyện, chợ phủ họp theo phiên được thành lập làm giao thương buôn bán ở các vùng tấp nập.

Cùng với phát triển kinh tế lĩnh vực văn hóa, xã hội cũng có những bước phát triển đáng kể. Các khoa thi tuyển chọn nhân tài được tổ chức khá đều đặn đã tạo nên nhiều trường thi, nhiều nhà văn hóa lớn của đất nước thời kỳ này để lại dấu ấn đáng kể như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú… Ở Thanh Hóa cũng có nhiều nho sỹ nổi danh như Lương Đắc Bằng, Lương Hữu Khánh, Đào Duy Từ, Lê Đình Chất, Lê Hy, Nguyễn Quán Nho, Hà Tông Huân, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Hiệu, Nguyễn Hoàn… Các chúa Trịnh như Trịnh Doanh, Trịnh Sâm… là người thích mê thơ, làm thơ nhưng nổi bật hơn cả là chúa Trịnh Sâm với nhiều bài thơ tả, vịnh cảnh rất hay. Tiêu biểu là Tây Hồ tức cảnh (I, II) bằng thơ nôm, Hương Tích sơn (thơ chữ Hán)…

Văn học dân gian thời Lê Trung hưng cũng phát triển mạnh mẽ, các sáng tác văn học dân gian phong phú và đa dạng về đề tài và chủ yếu bằng văn nôm. Đặc biệt là sự ra đời của hệ thống chuyện Trạng Quỳnh là tiếng cười đả kích sâu cay của nhân dân với xã hội đương thời. Về nghệ thuật, đình chùa được trùng tu lại nhiều đã phục hồi lại lễ hội với nhiều hình thức diễn xướng dân gian như trò rối, trò Ngô, trò chạy chữ, Xuân Phả… được người dân tham dự đông đảo.

Về đối ngoại, trong 244 năm nắm quyền quản lý, điều hành đất nước các chúa Trịnh đã thực hiện đường lối ngoại giao khôn khéo, giữ được chủ quyền độc lập tự chủ của đất nước. Trong bối cảnh đất nước loạn ly, xứ Thanh lại sản sinh ra một dòng họ vương giả, nguồn gốc xuất thân nghèo khó, lại ghi đậm dấu ấn trong lịch sử là dòng họ phục hưng nhà Lê, để lại nhiều dấu ấn trong KT-XH của đất nước từ giữa thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 18.

Song, những vị chúa cuối cùng như Trịnh Cán, Trịnh Tông (Khải) Trịnh Bồng lại bị cuốn vào dòng xoáy quyền lực nên anh em tàn hại lẫn nhau, kinh thành náo loạn bởi loạn kiêu binh. Chỉ đến khi Hoàng đế Quang Trung người anh hùng dân tộc kiệt xuất cùng đoàn quân Tây Sơn thần tốc kéo ra Bắc Hà tiêu diệt 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, sự nghiệp của vương triều Lê- Trịnh mới kết thúc.

Ngay sau khi dẹp yên quân Mạc, thu lại kinh thành Thăng Long, các chúa Trịnh đã cho xây dựng ở quê hương những phủ, nghè để thờ phụng tổ tiên. Đây cũng là nơi nghỉ ngơi của các chúa mỗi khi có dịp về Thanh Hóa. Phủ Trịnh hiện nay còn lại ngôi nhà 7 gian với 8 hàng cột gỗ lim đặt trên chân tảng. Nghè. Vẹt cách Phủ Trịnh hơn 500 m có 11 gian nằm ngay ven đê sông Mã cũng là nơi thờ các chúa Trịnh. Phủ Trịnh hiện thờ 10 vị chúa của dòng họ Trịnh. Đó là Thế Tổ Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm (1545-1570). Thành Tổ Triết Vương Trịnh Tùng (1570-1623): Văn Tổ Nghị Vương Trịnh Tráng (1623-1652); Hoằng Tổ Dương Vương Trịnh Tạc (1653-1682) Chiêu Tổ Khang Vương Trịnh Căn (1682-1709); Hy Tổ Nhân Vương Trịnh Cương (1709-1729); Dụ Tổ Thuận Vương Trịnh Giang (1729-1740); Nghè Tổ Ân Vương Trịnh Doanh (1740-1767); Thánh Tổ Thịnh Vương Trịnh Sâm (1767-1782); Đoan Nam Vương Trịnh Tông (1782-1786). Riêng Điện Đô Vương Trịnh Cán ở ngôi 2 tháng và Án Đô Vương Trịnh Bồng (1787-1788) không được thờ ở đây.

Di tích Phủ Trịnh, Nghè Vẹt đã được Nhà nước xếp hạng là di tích quốc gia. Trải qua năm tháng di tích đã tu sửa nhiều lần nhưng hiện ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Trong tháng 10/2016 tỉnh đã quyết định đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích Phủ Trịnh, Nghè Vẹt với số tiền hàng trăm tỷ đồng. Đây là việc làm “uống nước nhớ nguồn” thể hiện nét đẹp trong nếp sống, sinh hoạt văn hóa cộng đồng được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Theo VĂN HÓA & ĐỜI SỐNG

Tags: , ,