Sự phát triển của nghệ thuật là sự phát triển của sự trừu tượng, và sự phát triển của sự trừu tượng là sự di chuyển vào trong một thứ ngôn ngữ vô hình
Sự phát triển của nghệ thuật là sự phát triển của sự trừu tượng, và sự phát triển của sự trừu tượng là sự di chuyển vào trong một thứ ngôn ngữ vô hình
Cái đẹp là gì? Chúng ta chưa có một ý niệm nào về cách thức mà bộ não của chúng ta nhận biết cái đẹp của tạo hóa. Và vì thế cũng thật là mạo hiểm khi nói đến cái đẹp trong lĩnh vực khoa học.
Tư tưởng mỹ học, sáng tạo nghệ thuật của Platon đã trải qua gần ba thiên niên kỷ nhưng vẫn là cơ sở cho mọi khuynh hướng mỹ học lớn trong mọi thời đại.
Nỗi buồn triết học Nhật Bản là suối nguồn của mọi quỹ đạo mỹ học Nhật Bản mang tên aware, khái niệm được hiểu như sự nhạy cảm, buồn bã, từ đó mà sinh ra yếu tính “nhạy cảm trước vạn vật” của người Nhật.
Chúng ta vẫn thường nghe và nói: cảm quan đời sống, cảm quan tôn giáo, cảm quan nghệ thuật… “Cảm quan” đã trở thành cụm từ cửa miệng, nhưng để hiểu rõ nội hàm thuật ngữ thì không đơn giản.
Kết quả của làn sóng yêu thích điện ảnh cũng là một chủ đề cho sự suy ngẫm mang tính triết học, triết học điện ảnh là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng của mỹ học hiện nay.
Cảm thụ thẩm mỹ là hoạt động mang đậm dấu ấn cái “tôi” cá nhân của chủ thể, gắn liền với những năng lực tinh thần chủ quan, với tình cảm, thị hiếu của mỗi người.
Quan niệm thẩm mỹ về cái Đẹp và triết lý sáng tác thơ, truyện của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe đã “nhập tịch” vào quan niệm nghệ thuật của nhiều nhà thơ, nhà văn lãng mạn Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ 20.
Việc thiếu mục đích bên ngoài được bù lại bằng vô số những mục đích bên trong, tức là mối quan hệ giữa các bộ phận và các yếu tố của tác phẩm. Nhờ vào nghệ thuật, cá nhân con người có thể đạt đến sự tuyệt đối.
Bàn về cái đẹp, Socrate chỉ nói một tư tưởng ngắn gọn: Cần phải xây dựng được một khái niệm (ý niệm) về cái Đẹp và một cái Đẹp được coi là lý tưởng.