Cạnh tranh Mỹ – Trung tại biển Đông leo thang: Lựa chọn nào cho ASEAN và Việt Nam?

Những năm gần đây, va chạm giữa các siêu cường đã diễn ra với tần suất và mức độ phức tạp ngày càng gia tăng. Ngọn lửa xung đột luân phiên dịch chuyển giữa các điểm nóng, từ Trung Cận Đông tới Đông Âu và hoàn toàn có thể nổi lên tại các điểm nóng tại Đông Á trong đó có Biển Đông. Thực tiễn cho thấy, cuộc đua tranh Mỹ – Trung tại Biển Đông có dấu hiệu leo thang căng thẳng trong thời gian vừa qua. Điều đó tạo ra những thách thức nghiêm trọng đối với hòa bình, ổn định của Đông Nam Á. Tại sao lại là Biển Đông? Căng thẳng Mỹ – Trung tại Biển Đông biểu hiện như thế nào? Và đứng trước hoàn cảnh như vậy, ASEAN và Việt Nam có thể làm gì?

Cạnh tranh Mỹ – Trung tại biển Đông leo thang: Lựa chọn nào cho ASEAN và Việt Nam?

Biển Đông nóng lên là một xu thế tất yếu

Thứ nhất, giá trị địa chiến lược của Biển Đông trong cuộc cạnh tranh nước lớn từ sau Chiến tranh Lạnh. Biển Đông là một mắt xích quan trọng trong hệ thống vành đai bất ổn Á – Phi – Âu, với đặc điểm chung là khu vực giao thoa quyền lực của các cường quốc địa phương cũng như các cường quốc toàn cầu. Ứng với mối quan hệ mang tính hệ thống với các điểm nóng khác, Biển Đông cùng các khu vực bất ổn tại Đông Á, Trung Cận Đông và Đông Âu luân phiên hâm nóng bầu không khí cạnh tranh quyền lực giữa các siêu cường. Cần nói thêm rằng, Biển Đông án ngữ con đường giao thương trị giá hàng ngàn tỷ USD (các nguồn thống kê đưa ra các số liệu không giống nhau, năm 2016, con số này dao động từ 3.370 tỷ USD đến 5.300 tỷ USD[1]). Đồng thời, các quốc gia xung quanh Biển Đông đóng vai trò đại công xưởng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tài nguyên và nguồn nhân lực giá rẻ với trình độ ngày càng được nâng cao cũng trở thành lý do biến Biển Đông trở thành một trong những nơi có sức hút đặc biệt lớn đối với các cường quốc. Bên cạnh đó, đối với Trung Quốc, Biển Đông đóng vai trò là tuyến đường biển thuận lợi nhất cho sự trỗi dậy của Bắc Kinh, bởi đây là khu vực Mỹ chưa thể bố trí một lực lượng dày đặc như ở Đông Bắc Á. Về quân sự, trong hai thập niên đầu thế kỷ 21, chi tiêu quốc phòng của các quốc gia xung quanh Biển Đông đã gia tăng nhanh chóng. Trong đó, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã lớn hơn toàn bộ các quốc gia trong khu vực này cộng lại. Tuy nhiên, mức tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc không phải là điều bất thường bởi hai lý do: Một là, tương ứng với quy mô kinh tế ngày càng lớn mạnh của họ. Hai là, nhu cầu cân bằng lực lượng với bộ máy quân sự mà Mỹ đã và đang gây dựng ở Đông Á.

Thứ hai, tương lai bất định của Đài Loan đang tạo ra áp lực không nhỏ đối với tình hình Biển Đông. Không ít nhà nghiên cứu đang “đặt cược” vào khả năng Bắc Kinh sẽ thống nhất Đài Loan trong thập niên này, đưa nó trở về với Đại lục. Trong trường hợp đó, Biển Đông sẽ đóng vai trò là một căn cứ hậu cần cũng như một điểm phòng thủ từ xa lý tưởng đối với tất cả các bên liên quan. Xu hướng căng thẳng ở Biển Đông hoàn toàn có thể giúp báo hiệu thời điểm Trung Quốc thống nhất Đài Loan. Và ngược lại, mong muốn thống nhất Đài Loan càng đến gần thì cuộc đua ở Biển Đông càng căng thẳng.

Thứ ba, tham vọng liên minh hóa Đông Á của Mỹ đang tăng tốc, QUAD (Tứ giác An ninh Mỹ, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ), AUKUS (Thỏa thuận quốc phòng ba bên Mỹ, Anh, Úc) và JAPHUS (Hợp tác An ninh ba bên Nhật Bản, Mỹ, Philippines) là những minh chứng rõ nét nhất cho tham vọng của Mỹ. Động lực chính tất nhiên là chiến lược kiềm chế Trung Quốc của Mỹ và Washington cần có một chuỗi liên kết mạnh tương tự như NATO của Đại Tây Dương để đảm đương nhiệm vụ đó. Thật không may, Biển Đông lại là khu vực “bao phủ” chính của tất cả các liên kết này. Quá trình liên minh hóa, quân sự hóa Đông Á sẽ thúc đẩy cuộc chạy đua vũ trang và tâm lý chính trị bất an tại Biển Đông. Hơn nữa, nó cũng làm suy yếu vai trò trung tâm của ASEAN liên quan đến quá trình phân tách các thành viên trong tổ chức này.

Thứ tư, những mâu thuẫn vốn có liên quan đến vấn đề Biển Đông chưa được giải quyết một cách triệt để và chúng vẫn có nguy cơ bùng phát trở lại. Đặc biệt các mâu thuẫn liên quan đến vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển, tự do hàng hải, tài nguyên biển… giữa các nước thành viên ASEAN, và giữa các nước này với Trung Quốc. Hiện nay, các bên đã và đang nỗ lực xây dựng bộ khung COC, nhưng đó là chặng đường còn nhiều khó khăn. Người ta đã trông chờ vào nó suốt hai thập kỷ qua, nhưng những kết quả ban đầu là quá ít so với kỳ vọng. Hơn nữa, cần hiểu rằng DOC hay COC không phải là giải pháp có thể giải quyết tận gốc các mâu thuẫn ở Biển Đông. Trong những điều kiện bất thường của bối cảnh lịch sử, xung đột vẫn có thể nổ ra bất chấp các thỏa thuận, hiệp định đã từng ký kết.

Vai trò trung tâm của ASEAN đã và đang góp phần quan trọng trong việc giữ vững tình hình ổn định của Biển Đông, nhưng không có gì đảm bảo vai trò ấy sẽ được giữ vững trong một tương lai phức tạp phía trước.

Mỹ và Trung Quốc đang cố gắng rỡ bỏ “hàng rào” ASEAN

Với tầm quan trọng quá lớn của Biển Đông, cả hai siêu cường đều đang cố gắng vươn tầm ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á. Để làm được điều đó, mấu chốt là phải phá vỡ được phòng tuyến ASEAN, làm suy yếu vai trò của tổ chức khu vực này. Thực tế, cả hai đã và đang có nhiều hành động nhằm đạt được điều đó.

Về phía Mỹ, Washington đang cố gắng làm suy yếu ASEAN thông qua việc cố gắng tách Philippines ra khỏi tinh thần chung của khu vực.

Sau thời gian “nguội lạnh” trong quan hệ Mỹ – Philippines thời cựu Tổng thống Duterte, Tổng thống đương nhiệm Marcos (con) đang có những động thái hâm nóng lại quan hệ với đồng minh. Dễ thấy nhất là việc nước này đã đồng ý cho Mỹ mở rộng sự hiện diện ở 4 căn cứ quân sự. Tổng cộng, Mỹ sẽ được phép tăng cường sự hiện diện lực lượng tại 9 căn cứ trên khắp Philippines. Đáng chú ý: đảo Balabac rất gần các căn cứ của Trung Quốc ở Biển Đông; Căn cứ Hải quân Camilo Osias ở phía Bắc Luzon nằm cách Cao Hùng (Đài Loan) chỉ 500 km.

Chuyên gia Collin Koh, làm việc tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, cho biết: “Các địa điểm phía Bắc không chỉ nhằm đề phòng một tình huống bất ngờ đối với Đài Loan, chúng có ích trong hoàn cảnh nảy sinh xung đột ở Biển Đông…”. Ông nói thêm: “Balabac cho phép Mỹ dễ dàng thu thập thông tin tình báo và triển khai các hoạt động hải quân và không quân thời bình trong khu vực, đồng nghĩa với việc đặt Đá Vành Khăn dưới sự giám sát chặt chẽ hơn”[2].

Bên cạnh đó, kế hoạch đưa Philippines vào Hợp tác An ninh Ba bên JAPHUS (Nhật Bản, Mỹ, Philippines) chắc chắn là điều mà ASEAN không mong muốn. Vấn đề này đã được nêu ra trong bài viết “Hợp tác An ninh Ba bên JAPHUS – Giải pháp hay thách thức đối với an ninh Đông Á?” trên Nghiên cứu Chiến lược. Theo đó, JAPHUS sẽ làm suy yếu lòng tin giữa các quốc gia trong khu vực và việc lôi kéo thành viên ASEAN tham gia một liên kết bên ngoài sẽ làm suy yếu vai trò trung tâm của tổ chức[3]. Lời giải thích từ phía Manila rằng họ chỉ đang cải thiện quan hệ với Mỹ tỏ ra không thỏa mãn được những nghi ngờ từ cả ASEAN lẫn Trung Quốc.

Về phía Trung Quốc, Bắc Kinh dường như đang quay trở lại xu hướng ưu tiên ngoại giao song phương ở Đông Nam Á. Phát biểu tại một cuộc hội thảo trong khuôn khổ Diễn đàn châu Á Bác Ngao, Chủ tịch sáng lập Viện Nghiên cứu Nam Hải Quốc gia Trung Quốc, ông Ngô Sĩ Tồn nêu rõ: “Mùi thuốc súng ở Biển Đông đang ngày càng nồng nặc”[4]. Trước áp lực đó, Trung Quốc cần phải tìm cách tăng cường sự chủ động tại khu vực này. Và thực tế, Bắc Kinh đang tăng cường thảo luận về vấn đề Biển Đông với từng nước thành viên ASEAN hơn so với việc thảo luận chung với tập thể khối này. Các tương tác gần đây của Trung Quốc với các đối tác ASEAN như Indonesia, Malaysia, Campuchia hay chính Philippines đã thể hiện phần nào ý đồ đó.

Nhìn lại lịch sử, trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chính sách ưu tiên ngoại giao song phương, “tách bó đũa” ASEAN của Trung Quốc tỏ ra tương đối hiệu quả. Đến những năm đầu thế kỷ 21, với sự gia tăng vai trò của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Bắc Kinh đã phải “tạm gác” ưu tiên đối thoại song phương để chuyển sang đối thoại đa phương về vấn đề Biển Đông. Nhưng các cuộc gặp gỡ song phương gần đây đang cho thấy Trung Quốc có xu hướng trở lại chính sách thời Chiến tranh Lạnh. Chỉ có điều, phương thức tiếp cận của Bắc Kinh đã khác rất nhiều, họ không sử dụng quân bài răn đe quân sự như những thập niên 70, 80 của thế kỷ trước. Thay vào đó, sức ảnh hưởng về kinh tế được sử dụng làm nền tảng chính tác động tới ý chí của các nước Đông Nam Á. Điều đó cũng tỏ ra phù hợp với chiến lược “trỗi dậy hòa bình” của Bắc Kinh.

Nhìn chung, chiến lược “tách bó đũa” được áp dụng không chỉ riêng từ phía Trung Quốc, mà Mỹ cũng đang tích cực triển khai chiến lược này đối với ASEAN. Chính “ngoại giao phòng ngừa” tại Đông Nam Á đang là hàng rào đang cản trở tham vọng của hai siêu cường tại Biển Đông. Làm suy yếu vai trò trung tâm của ASEAN là lựa chọn không thể thay đổi của Mỹ cũng như Trung Quốc trong cuộc đua tranh hiện tại và tương lai giưa hai thế lực này.

Thế khó của ASEAN

Lợi ích quá lớn từ mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc một mặt sẽ góp phần xây dựng quan điểm thống nhất của ASEAN về việc ưu tiên xu thế hợp tác, tránh đối đầu, nhưng ở một mặt khác, dưới sức ảnh hưởng của Mỹ đối với các quốc gia đồng minh thân cận của họ sẽ tạo ra tình thế lưỡng nan đối với các nước Đông Nam Á này. Sự “do dự” trong ý chí của các quốc gia thành viên ASEAN có thể sẽ dẫn đến những quyết sách sai lầm trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Kết cục có thể dẫn tới những chuyển biến vượt khả năng kiểm soát tại Biển Đông.

Sự phân hóa trong nội bộ ASEAN là một điểm đáng lo ngại, quan điểm của các quốc gia Đông Nam Á liên quan đến vấn đề Biển Đông có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm quốc gia trong nội bộ ASEAN. Cụ thể gồm nhóm quốc gia có tranh chấp trực tiếp tại Biển Đông và nhóm quốc gia không có tranh chấp tại Biển Đông. Thậm chí, trong hai nhóm quốc gia này cũng có sự phân hóa trong cách ứng xử với các bên có liên quan.

Ví dụ, trong nhóm quốc gia có tranh chấp trực tiếp tại Biển Đông (gồm Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia) hai nước Brunei và Malaysia có chính sách tương đối ôn hòa dù họ vẫn giữ lập trường chủ quyền. Trong khi đó, Việt Nam và Philippines tỏ ra cứng rắn trong chính sách, nhưng biểu hiện của hai nước cũng không giống nhau. Các động thái thất thường của Philippines thể hiện một chính sách mơ hồ, còn Việt Nam tỏ ra nhất quán “linh hoạt trong kiên định” về vấn đề Biển Đông. Đối với nhóm các nước ASEAN không có tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, một số có “ý tưởng” sử dụng “lá phiếu biểu quyết” của mình để mặc cả lợi ích với các bên có liên quan. Điều này làm mối quan hệ nội bộ giữa các nước trong khu vực trở nên phức tạp, đồng thời nó cũng tác động tiêu cực đến sự đoàn kết nội khối trước những cơn sóng lớn từ bên ngoài.

Thế lưỡng nan của Philippines, trong số các quốc gia Đông Nam Á, Philippines là bên phải chịu nhiều áp lực nhất và đứng trong tình thế khó khăn nhất khi buộc phải đưa ra lựa chọn mỗi khi cạnh tranh Mỹ – Trung có diễn biến mới. Bài viết “Philippines trong tham vọng liên minh hóa, quân sự hóa Đông Á của Mỹ” trên Nghiên cứu Chiến lược đã đưa ra nhận định: “Philippines không có nhiều lựa chọn ngoài việc vừa cải thiện quan hệ với đồng minh vừa tận dụng cơ hội hợp tác với bên ngoài. Và lựa chọn đó phải đảm bảo hai nguyên tắc: (1) duy trì vị thế “hòn đá tảng” của mối quan hệ đồng minh Mỹ – Philippines; (2) không gia nhập vào các liên minh quân sự mới”[5]. Điều đó cũng có nghĩa là Philippines không thể mạo hiểm tạo ra tâm lý đối đầu với Trung Quốc, bởi sự phát triển kinh tế của quốc đảo này được hưởng lợi rất lớn từ quan hệ kinh tế với Bắc Kinh. Mặc dù vậy, việc để Mỹ mở rộng các căn cứ quân sự trong lãnh thổ, Philippines cũng sẽ đứng trước một thách thức rất lớn trong việc cân bằng quan hệ giữa hai siêu cường – một mục tiêu chiến lược và cả cựu Tổng thống Duterte và vị Tổng thống đương nhiệm của Philippines hướng đến. Không những vậy, Philippines cũng đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tin của các nước ASEAN khi tổ chức này luôn nỗ lực phi quân sự hóa khu vực Đông Nam Á.

Sự ràng buộc về kinh tế giữa ASEAN với Trung Quốc và Mỹ gia tăng, trong khi quy mô nền kinh tế xét theo con số GDP của Trung Quốc đang tiến sát Mỹ với tốc độ nhanh chóng thì quy mô nền kinh tế của cả ASEAN ở thời điểm năm 2020 chỉ bằng 16,9% so với Trung Quốc và bằng 12,3% so với Mỹ. Quan hệ kinh tế của ASEAN với hai siêu cường thể hiện hai chiều hướng tương đối khác biệt, trong khi ASEAN nhập siêu từ Trung Quốc thì các thành viên tổ chức này lại xuất siêu sang Mỹ. Ở khía cạnh nào đó, có thể coi ASEAN là một mắt xích trung gian quan trọng giữa hai thị trường khổng lồ Mỹ và Trung Quốc. Sự phụ thuộc cũng như lợi ích từ việc duy trì quan hệ kinh tế giữa các bên có liên quan trở thành một “cơn đau đầu” mỗi khi đưa ra các quyết định chính trị liên quan đến cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở Biển Đông. Và gần như đó là “cơn đau” chung của toàn bộ thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.

Rõ ràng, chưa bao giờ ASEAN lâm vào tình trạng khó xử liên quan đến cạnh tranh Mỹ – Trung tại Biển Đông như thời điểm hiện tại, thậm chí còn gia tăng trong tương lai. Trong xu thế các quốc gia dần phải “chọn bên”, làm thế nào để duy trì vai trò trung tâm độc lập của ASEAN là điều không dễ dàng.

Đối sách nào cho Việt Nam?

Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng lớn nhất liên quan đến tình hình căng thẳng tại Biển Đông leo thang. Tác động tiêu cực của nó có thể khiến các mục tiêu tăng trưởng kinh tế bị đình trệ thậm chí đổ vỡ, đồng thời làm tiêu tan tất cả những nỗ lực đàm phán giải quyết vấn đề Biển Đông kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Không những vậy, căng thẳng Biển Đông có thể làm tăng nguy cơ bất ổn xã hội, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tạo điều kiện cho chủ nghĩa dân túy trỗi dậy. Đó là những viễn cảnh tiêu cực mà Việt Nam chắc chắn không muốn xảy ra. Để giảm thiểu tác động tiêu cực từ cuộc cạnh tranh nước lớn leo thang tại biển Đông, một số gợi ý tuy không mới, nhưng cần phải nhấn mạnh lại.

Thứ nhất, nỗ lực tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN, đặc biệt về vấn đề Biển Đông. Việt Nam đã và đang thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với khu vực, đặc biệt trong những năm giữ vai trò chủ tịch luân phiên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều dấu ấn lớn nhưng tầm ảnh hưởng của Việt Nam không tỏ ra vượt trội so với các quốc gia còn lại trong khu vực. Điều đó khiến Việt Nam không đủ khả năng đơn phương ngăn chặn quá trình can thiệp của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Do vậy, thúc đẩy ngoại giao đa phương, đặc biệt là hợp tác khu vực Đông Nam Á phải được coi là ưu tiên hàng đầu. Việt Nam cần chủ động có những sáng kiến nhằm duy trì và tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN trong các vấn đề khu vực và quốc tế, đồng thời đưa ra những khuyến nghị phù hợp nhằm ngăn chặn hoặc ít nhất là hạn chế tính hiệu quả của chiến lược “tách bó đũa” ASEAN của các nước lớn.

Thứ hai, duy trì chính sách ngoại giao nước lớn linh hoạt, đảm bảo chiến lược “ngoại giao cây tre” được vận hành theo đúng tinh thần Trung ương đã đề ra. Cạnh tranh nước lớn càng diễn biến phức tạp thì chính sách đối ngoại với các cường quốc càng cần phải thận trọng, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên, tránh liên quan đến các “cuộc chơi lợi ích” có tổng bằng không; không vì phát triển quan hệ với bên này mà làm phương hại đến lợi ích chính đáng của bên còn lại. Đồng thời, Việt Nam cần nâng cao chất lượng lãnh đạo, tính hiệu quả trong công tác quản lý của các cấp trong công tác đối ngoại, không để các “lợi ích nhóm” tiêu cực lợi dụng làm sai lệch tinh thần của chiến lược “ngoại giao cây tre”. Trước những diễn biến phức tạp mới của thế giới đương đại, Việt Nam cũng cần nghiên cứu phát triển thêm khái niệm “đối tác – đối tượng” phù hợp với tình hình mới. Đây là yếu tố quan trọng giúp công tác đối ngoại xác định được chính xác mục tiêu cần đấu tranh cũng như đối tác cần hợp tác, nhờ vậy, việc hoạch định chính sách mới có thể sát với tình hình thực tiễn.

Thứ ba, xây dựng năng lực quốc phòng thích nghi với diễn biến mới. Trong xu thế chung của cuộc cạnh tranh nước lớn trên phạm vi toàn cầu, các nguy cơ bất ổn luôn rình rập đe dọa với tình hình an ninh khu vực. Việc có được một lực lượng quân sự đủ mạnh cũng là một yếu tố giúp giảm thiểu nguy cơ mất an ninh quốc gia. Do vậy, hiện đại hóa quân đội là một nhiệm vụ trọng tâm. Đa dạng hóa vũ khí trang bị cũng có thể được xem là một nước đi phù hợp trong bối cảnh Việt Nam vừa cần bổ sung năng lực quốc phòng vừa cần một công cụ phục vụ nhu cầu đa dạng hóa, đa phương hóa ngoại giao cũng như chính sách cân bằng nước lớn. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa trang bị vũ khí chỉ nên triển khai ở cấp độ chiến thuật, tuyệt đối không thể thay đổi hệ thống trang bị mang tính chiến lược trong thời điểm hiện tại và cả ở tương lai gần. Đồng thời, song hành với quá trình hiện đại hóa quân đội, việc tăng cường công tác chính trị trong toàn quân cũng là một yếu tố then chốt. Hiện nay, cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng có cường độ khốc liệt không thua kém so với các cuộc chiến tranh thông thường. Hệ lụy từ việc không coi trọng đúng mức công tác chính trị trong quân đội có thể sẽ rất lớn. Ngoài ra, nâng cao năng lực quốc phòng cũng cần đi đôi với việc thúc đẩy đối ngoại quốc phòng toàn diện, xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia. Việt Nam cần tích cực thúc đẩy các cơ chế hợp tác về quốc phòng cả ở góc độ song phương lẫn đa phương nhằm tăng cường hiểu biết về các lực lượng trên thế giới, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng thắng.

——————–

Chú thích:

[1] CSIS, How Much Trade Transits the South China Sea?, https://chinapower.csis.org/much-trade-transits-south-china-sea/
[2] Brad Lendon, “US gains military access to Philippine bases close to Taiwan and South China Sea”, CNN, 04.4.2023
[3] Hoàng Hải, “Hợp tác An ninh Ba bên JAPHUS – Giải pháp hay thách thức đối với an ninh Đông Á?”, Nghiên cứu Chiến lược, 01.4.2023.
[4] Amber Wang, “US military presence risks conflict in South China Sea, Boao Forum hears”, SCMP, 31.3.2023.
[5] Hoàng Hải, “Philippines trong tham vọng liên minh hóa – quân sự hóa Đông Á của Mỹ”, Nghiên cứu Chiến lược, 06.3.2023.

Theo HOÀNG HẢI / NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC 

Tags: , , ,