⠀
Max Weber và sự bổ sung cho quan điểm về phân tầng xã hội – giai cấp của Marx
Max Weber nghiên cứu cấu trúc xã hội của chủ nghĩa tư bản sau Marx hơn nửa thế kỷ. Do vậy, ông đã ghi nhận được những thay đổi quan trọng trong cơ cấu giai cấp xã hội để phát triển lý thuyết xã hội học về sự phân tầng xã hội.
Maximilian Carl Emil Weber (1864 – 1920) là nhà kinh tế chính trị học và xã hội học người Đức, được nhìn nhận là một trong bốn người sáng lập ngành xã hội học và quản trị công đương đại. Khởi đầu sự nghiệp tại Đại học Berlin, sau đó Weber làm việc tại các trường đại học Freiburg, Heidelberg, Wien và München.
Các công trình nghiên cứu chính của Weber tập trung vào việc hợp lý hóa ngành xã hội học tôn giáo và chính quyền học, nhưng ông cũng đóng góp đáng kể cho ngành kinh tế học. Ông được xếp bên cạnh Karl Marx và Georg Simmel, tác giả của những tác phẩm cổ điển quan trọng của ngành xã hội học kinh tế Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Nền Đạo đức Tin Lành và Tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản (Die protestantische Ethik und der Geist des Kapitalismus), đánh dấu sự khởi đầu của một loạt khảo cứu của ông về ngành xã hội học tôn giáo. |
Theo quan niệm của Marx, cơ sở của sự phân chia giai cấp và sự phân tầng xã hội theo giai cấp là trình độ sản xuất còn thấp. Theo Weber, lĩnh vực kinh tế không còn vai trò quan trọng đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội tư bản hiện đại.
I. Những quan điểm về phân tầng xã hội – giai cấp
1. Quan điểm của Karl Marx
Những lý luận của Marx về hoạt động tổ chức sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội cũng như sự phân công lao động trong xã hội cùng với những phân tích về cấu trúc xã hội đã vạch rõ tính chất giai cấp của xã hội và tính bất bình đẳng trong quan hệ xã hội. Theo quan niệm của Marx, cơ sở của sự phân chia giai cấp và sự phân tầng xã hội theo giai cấp là trình độ sản xuất còn thấp. Quy luật phân công lao động quy định sự phân chia xã hội thành các giai cấp. Marx chỉ ra rằng, chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sản sinh ra cấu trúc phân tầng xã hội gồm hai tầng bậc chủ yếu:
– Giai cấp hay tập đoàn người làm ông chủ, sở hữu tư liệu sản xuất, chiếm vị trí thống trị và bóc lột người khác.
– Các nhóm hay các giai cấp còn lại trong xã hội không nắm tư liệu sản xuất.
Trong cấu trúc xã hội như vậy, quan hệ giữa hai phe nhóm, hai giai cấp này mang tính chất bất bình đẳng sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là mối quan hệ giữa những kẻ áp bức với những người bị áp bức.
Marx chỉ rõ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản là giai cấp mà những nhà tư bản hiện đại, những người sở hữu tư liệu sản xuất xã hội và sử dụng lao động làm thuê, kiểm soát lao động và sản phẩm lao động, áp bức và bóc lột giai cấp vô sản. Giai cấp bị thống trị, bị áp bức là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân nên buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
Qua những phân tích về cấu trúc xã hội của Marx, có thể rút ra hai điều quan trọng: Thứ nhất, về mặt lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản, cần xóa bỏ và thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ sở hữu xã hội để xây dựng xã hội phát triển. Thứ hai, về mặt lý luận và thực nghiệm xã hội học cần tập trung phân tích cấu trúc xã hội để chỉ ra ai là người có lợi và ai là người thiệt hại từ cách tổ chức xã hội và cơ cấu xã hội hiện có. Nói cách khác, cấu trúc xã hội, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội phải là những chủ đề nghiên cứu cơ bản của xã hội học hiện đại.
Đối với một xã hội có sự phân chia giai cấp, Marx khẳng định: “Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị” và phục vụ cho giai cấp thống trị.
2. Quan điểm của Max Weber
Weber nghiên cứu cấu trúc xã hội của chủ nghĩa tư bản sau Marx hơn nửa thế kỷ. Do vậy, Weber đã ghi nhận được những thay đổi quan trọng trong cơ cấu giai cấp xã hội để phát triển lý thuyết xã hội học về sự phân tầng xã hội. Theo Weber, lĩnh vực kinh tế không còn vai trò quan trọng đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội tư bản hiện đại. Cấu trúc xã hội nói chung và sự phân tầng xã hội nói riêng chịu tác động của hai nhóm yếu tố cơ bản:
– Các yếu tố kinh tế (vốn, tư liệu sản xuất, thị trường…).
– Các yếu tố phi kinh tế (vị thế xã hội, năng lực, cơ may, quyền lực…) trong quá trình hình thành và biến đổi cấu trúc xã hội và sự phân tầng xã hội.
Weber quan niệm giai cấp là một tập hợp người có chung các cơ hội sống trong điều kiện kinh tế thị trường. Cơ hội sống ở đây được hiểu là các cơ may nảy sinh từ việc sản xuất, nắm giữ, sử dụng và mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Thị trường là lĩnh vực mà ở đó hàng hóa, lao động hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra và được trao đổi. thị trường cũng là nơi thể hiện các lợi ích kinh tế và thu nhập. Vì vậy nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành và biến đổi tình huống giai cấp.
Ông phân biệt hai tình huống giai cấp chính: một là tình huống của những người sở hữu tài sản và sử dụng tài sản đó để thu lợi nhuận; hai là tình huống của những người không có tài sản phải bán sức lao động, tay nghề, dịch vụ lấy tiền công hoặc tiền lương. Từ đó ông xem xã hội cấu thành từ hai nhóm giai cấp tương ứng với hai tình huống giai cấp trên, mỗi giai cấp có nhiều giai tầng khác nhau.
Weber cho rằng có hai hình thức phân tầng xã hội về mặt kinh tế:
– Sự phân tầng xã hội thành các giai cấp khác nhau về sở hữu tài sản. Ví dụ: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
– Sự phân tầng xã hội thành các giai cấp khác nhau về mức thu nhập. Ví dụ: giai cấp thượng lưu giàu có và giai cấp hạ lưu nghèo khổ.
Hai tháp phân tầng của Weber không hoàn toàn trùng khít nhau mà đan xen lẫn nhau, tương tác và chuyển hóa lẫn nhau. Trong xu thế đó, phân tầng xã hội thành các nhóm thu nhập diễn ra phổ biến trong xã hội hiện đại.
II. Sự khác biệt giữa Marx và Weber về quan niệm phân tầng xã hội – giai cấp
1. Về nguồn gốc của giai cấp
Theo Karl Marx, quan hệ đối với tư liệu sản xuất (có sở hữu về tư liệu sản xuất hay không) quan hệ đối với quá trình sản xuất (điều khiển trong quá trình đó hay bị điều khiển trong quá trình đó), cũng như quan hệ đối với kết quả sản xuất là những tác động đến việc hình thành giai cấp. Tức là nguồn gốc của giai cấp xuất phát từ các yếu tố kinh tế.
Còn theo Weber, các yếu tố về kinh tế không còn là yếu tố có vai trò duy nhất đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội nữa. Mà sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội chịu sự tác động của hai yếu tố kinh tế và phi kinh tế.
2. Về khái niệm giai cấp
Marx xác định khái niệm giai cấp trong mối liên hệ với phương thức sản xuất và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất.
Weber quan niệm giai cấp là một tập hợp người có chung các cơ hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Trong đó, Weber phân tích rõ cơ hội sống và kinh tế thị trường là gì và vai trò quan trọng của hai yếu tố này trong việc hình thành, biến đổi giai cấp.
3. Về cấu trúc và phân loại giai cấp
Cả Marx và Weber đều phân chia thành hai tình huống giai cấp chính. Hai giai cấp này mang tính chất bất bình đẳng sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trong khi Marx phân tích ngắn gọn rằng đó là mối quan hệ giữa những kẻ áp bức và những người bị áp bức. Và phân biệt thành hai giai cấp là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Weber cũng phân biệt thành hai giai cấp nhưng trong mỗi giai cấp lại có nhiều giai tầng khác nhau.
Thứ nhất, giai cấp tư sản gồm (1) tư sản – chủ vốn đầu tư và (2) tư sản – chủ tài sản cho thuê kiếm lời. Cả hai giai tầng này đều thuộc “giai cấp tài sản”.
Thứ hai, giai cấp thu nhập, giai cấp làm thuê gồm ba giai tầng: (1) người bán sức lao động có trình độ chuyên môn và có khả năng làm dịch vụ (người làm dịch vụ và quản lý), (2) người bán sức lao động có chuyên môn, tay nghề (công nhân có tay nghề, công nhân kỹ thuật còn gọi là công nhân cổ trắng), (3) người bán sức lao động thô sơ (công nhân không có tay nghề, còn gọi là công nhân cổ xanh).
Suy cho cùng, cách phân chia này là sự phát triển tư tưởng của Marx.
4. Về sự đa dạng về phân tầng xã hội
Marx chỉ ra sự phân tầng xã hội chia thành hai giai cấp là giai cấp thống trị chứa đựng những tư tưởng thống trị của mình. Và giai cấp bị thống trị là những người bị áp bức bóc lột sức lao động và tiền công.
Weber cho rằng về mặt kinh tế, có hai hình thức phân tầng xã hội. Thứ nhất, sự phân tầng xã hội thành các giai cấp khác nhau về sở hữu tài sản. Ví dụ: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Thứ hai, sự phân tầng xã hội thành các giai cấp khác nhau về thu nhập. Ví dụ: giai cấp thượng lưu – giàu có và giai cấp hạ lưu – nghèo khó.
Ngoài những người thuộc hai loại phân tầng xã hội trên, Weber còn cho rằng có những người mà cuộc sống của họ nhất là về lối sống không phụ thuộc hoàn toàn vào tình huống thị trường mà phụ thuộc vào uy tín, danh vọng và sự đánh giá của xã hội dành cho họ. Ông gọi họ là những người thuộc nhóm Vị thế (status group). Ông cũng cho rằng cả hai loại người có tài sản và không có tài sản đều có thể ở cùng một nhóm vị thế. Đây là phần tầng xã hội – vị thế.
Ngoài ra, Weber còn đưa ra hai khái niệm liên quan đến phân tầng giai cấp trong xã hội là khái niệm quyền lực và khái niệm đảng phái. Các khái niệm này hình thành nên một loại phân tầng khác nữa là phân tầng xã hội – đảng phái
5. Về tầm ảnh hưởng xã hội
Có một vấn đề chủ chốt trong sự phát triển của xã hội học Đức và thế giới là những lý thuyết của Weber được coi là hấp dẫn hơn những lý thuyết của Marx đối với những nhà xã hội học sau này.
Thực chất, có nhiều cách lý giải khác nhau để chứng minh sự hấp dẫn của lý thuyết Weber. Cách phân tích những quan điểm về sự phân tầng xã hội – giai cấp cũng là một trong lý do khiến cho lý thuyết Weber hấp dẫn.
Trong những phân tích về phân tầng xã hội – giai cấp, Weber đã đưa ra cách tiếp cận hoàn chỉnh về thế giới xã hội hơn là Marx. Trong những phân tích về phân tầng giai cấp của mình, nếu Marx chú trọng yếu tố kinh tế – nguồn gốc của phân chia giai cấp, thì Weber lại quan tâm đến một diện rộng hơn các hiện tượng xã hội. Bằng cách phân chia thành nhiều giai cấp – giai tầng khác nhau với những nhóm người khác nhau. Tính tập trung đa dạng này, dường như đã đem tới nhiều cái để các nhà xã hội học sau này làm việc hơn là mối quan tâm một chiều của Marx.
Có thể nói, việc Marx nhấn mạnh cấu trúc giai cấp xã hội đã mở ra hướng nghiên cứu xã hội học giai cấp và phân tầng xã hội theo giai cấp mà Max Weber là một người đi tiên phong.
Theo ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
Tags: Tư bản, Công bằng xã hội, Kinh tế học, Karl Marx, Con người và xã hội, Max Weber