Đông Nam Á trước các biến động ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương

Môi trường bên ngoài ngày càng phức tạp sẽ khiến các nước trong khu vực hướng tới các quy trình hoạch định chiến lược nhiều sắc thái hơn, trong đó có cả xu hướng giảm sự phụ thuộc vào các cường quốc lớn cũng như xây dựng các năng lực nội tại để thích ứng với sự thay đổi.

Phản ứng của Đông Nam Á trước biến động ở Ấn Độ – Thái Bình Dương

Bài viết của Tiến sĩ Lê Đình Tĩnh, Quyền Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Học viện Ngoại giao Việt Nam. Bài viết nằm trong ấn phẩm Đánh giá An ninh Khu vực 2020, tr.56-59 của Hội đồng Hợp tác An ninh Châu Á – Thái Bình Dương (CSCAP).

ASEAN và Việt Nam, với tư cách là các thực thể bậc trung, coi khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, với Đông Nam Á nằm ở trung tâm, là một trong những khu vực có tầm quan trọng chính trị, kinh tế và chiến lược nổi bật nhất. Bài bình luận này lập luận rằng môi trường bên ngoài ngày càng phức tạp sẽ khiến các nước trong khu vực hướng tới các quy trình hoạch định chiến lược nhiều sắc thái hơn, trong đó có cả xu hướng giảm sự phụ thuộc vào các cường quốc lớn cũng như xây dựng các năng lực nội tại để thích ứng với sự thay đổi.

Nhìn vào bức tranh lớn này, có 5 xu hướng chính định hình bối cảnh an ninh khu vực trong vài năm qua và trong tương lai gần. Thứ nhất, cạnh tranh nước lớn đã trở nên gay gắt hơn với những hậu quả lớn tương ứng, phần nào không thể lường trước và đoán trước. Đáng chú ý nhất là cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ ngày một gay gắt. Nhận thức rập khuôn lâu nay là quan hệ Trung-Mỹ có đặc trưng là vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Điều này đã thay đổi và hiện tại, mối quan hệ này có thể được mô tả như sau: từ “hợp tác” chuyển sang “hợp tác và cạnh tranh”, rồi “cạnh tranh hơn và ít hợp tác hơn”, rồi đến “kình địch”, cuối cùng là trở nên “đối đầu”.

Sự cạnh tranh mở rộng giữa hai nền kinh tế lớn nhất trái đất đã đạt đến cấp độ căng thẳng. Hai bên liên tục nói rằng họ không phải là đối thủ cũng không phải là kẻ thù của nhau. Một mặt, họ không còn coi nhau là đối tác như trong những năm Chính quyền Obama. Mặt khác, thuật ngữ “kình địch” có nghĩa là mặc dù hiện tại cạnh tranh vượt xa hợp tác nhưng không loại trừ hoàn toàn sự thỏa hiệp. Lý do cho khả năng và mong muốn hợp tác khá đơn giản: các lợi ích chung phát sinh từ sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và các mối đe dọa xuyên biên giới như khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và an ninh mạng. Về tác động, tình trạng kình địch Trung-Mỹ là cân nhắc cơ bản khi các nước khu vực thiết lập chiến lược an ninh quốc gia của mình.

Thứ hai, toàn cầu hóa, từng được coi là một đặc trưng tất yếu và không thể đảo ngược của hệ thống quốc tế, đã vấp phải những chất vấn, hoài nghi và chống lại. Thương mại tự do, một đặc trưng của toàn cầu hóa, không còn được coi là điều hiển nhiên nữa. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) chịu sức ép khi ngày càng có nhiều người hoài nghi về khả năng tạo ra các thỏa thuận mới cũng như khả năng quản lý và giải quyết tranh chấp với WTO. Nước Mỹ dưới thời Trump tốt nhất là có thái độ nghi ngờ dù không bằng chứng và kém nhất là muốn viết lại các quy tắc của tổ chức này. Theo nhà đàm phán thương mại theo đường lối cứng rắn của Trump, Robert Lighthizer, các nước trong khu vực từ Trung Quốc, Hàn Quốc đến Việt Nam đang phải đối mặt với ngày phán xét về những yêu cầu của Mỹ về thương mại tự do và công bằng. Vấn đề thương mại công bằng xuất hiện trong bối cảnh các phong trào chống toàn cầu hóa gia tăng xuất phát từ khoảng cách thu nhập mở rộng, tình trạng bất công xã hội và chủ nghĩa siêu quốc gia. Các yếu tố cơ bản của toàn cầu hóa như Internet và tính lưu động của con người vẫn còn đó nhưng giờ đây, các bức tường lửa kỹ thuật số và bức tường thép lớn đang được dựng lên ở Trung Quốc và Mỹ.

Thứ ba, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một câu khẩu hiệu hiện đại ưa thích của cả các chính trị gia lẫn nhà kỹ trị, đang xuất hiện tràn lan khắp các châu lục với những thực tế mới như Internet vạn vật, blockchain, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, giống như hầu hết các cuộc cách mạng, nó tạo ra các tác động khác nhau ở những nơi khác nhau. Nó dường như có lợi hơn là gây bất lợi cho các nước phát triển hơn như Nhật Bản, Úc và Hàn Quốc. Các nước đang bắt kịp khác như Malaysia và Singapore chịu tác động vừa tốt vừa xấu trong khi các nước nhỏ hơn như Lào và Timor Leste phải đối mặt với nguy cơ bị mắc kẹt và tụt lại phía sau. Ngay cả khi những nước kém phát triển này đưa ra quyết định hợp lý, thì họ cũng sẽ phải mất một thời gian mới có thể tham gia hội công nghệ này. Một vấn đề nghiêm trọng khác do cuộc cách mạng này gây ra là sự phân chia kỹ thuật số. Sự phân chia này trước đây chủ yếu đề cập đến khoảng cách công nghệ giữa các nước, còn giờ đây nói đến bức màn công nghệ hay sự chia tách, có khả năng tách các nước thành các hệ sinh thái công nghệ rời rạc. Việc một nước áp dụng các công nghệ 5G do Huawei phát triển hay bởi một nước phương Tây có thể sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, bao gồm cả những vấn đề địa chính trị.

Thứ tư, việc dân chủ hóa các mối quan hệ quốc tế, từng được coi là một xu hướng đầy hứa hẹn sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, hiện tại bị kiềm chế bởi quyền lực chính trị và thậm chí là khuynh hướng bá quyền quay trở lại. Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đưa ra một ví dụ nổi bật. Những sự chia rẽ và bế tắc từng xảy ra chủ yếu giữa Mỹ, Nga và Trung Quốc hiện tại dường như xảy ra giữa bất kỳ cặp nước nào. Các quan niệm về sự thống nhất và ý chí tập thể về dân chủ hóa các mối quan hệ quốc tế đã biến thành các khái niệm xa xỉ hoặc duy tâm hơn là thông lệ chung khi thế giới quay trở lại tương lai. Việc bổ sung thêm nhóm P5 có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an cũng như việc trao quyền cho E10 (nhóm 10 nước được bầu) là điều không thể xảy ra. Một con đường dẫn đến dân chủ hóa là chủ nghĩa đa phương. Trong khi tinh thần đa phương chưa mất hẳn, nhiều hình thức của nó, chẳng hạn như các thể chế đa phương, ngày càng bị thách thức bởi các cường quốc thúc đẩy các kế hoạch của riêng họ như chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở của Mỹ và sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. Cho đến nay, các kế hoạch này đặt ra những câu hỏi thay vì mang lại câu trả lời về nhu cầu kinh tế và an ninh của các nước bị ảnh hưởng. Xu hướng các cường quốc thích chủ nghĩa song phương và thậm chí chủ nghĩa đơn phương đang ngày càng mạnh mẽ hơn. Lấy ví dụ như việc Mỹ rút khỏi các cam kết đa phương khác nhau như Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) và Hiệp ước các lực lượng hạt nhân tầm trung (INF) hay việc Trung Quốc tiếp tục phủ nhận các phán quyết của tòa án trong vụ kiện Philippines trình lên Tòa La Hay năm 2016.

Thứ năm, các thách thức an ninh đương đại truyền thống và phi truyền thống ngày càng đòi hỏi nhiều nguồn lực quốc gia hơn để giải quyết. Không có giải pháp lâu dài nào cho bất cứ điểm nóng an ninh khu vực nào như bán đảo Triều Tiên, biển Hoa Đông, Biển Đông, tranh chấp biên giới Ấn Độ-Trung Quốc và quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan. Tội phạm công nghệ cao khiến khu vực thiệt hại hàng tỷ USD mỗi năm. Các vấn đề an ninh nguồn nước trong lưu vực sông Mekong đang gây ra thiệt hại nghiêm trọng hơn cho các nước ở hạ nguồn, cụ thể là Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Biến đổi khí hậu là một mối đe dọa leo thang (theo Liên hợp quốc) trong khi chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa siêu quốc gia tiếp tục đặt ra những mối đe dọa nghiêm trọng cho nhiều nơi trong khu vực.

Tất cả những xu hướng này đặt các nước trong khu vực vào tình trạng buộc phải thay đổi và điều chỉnh các chiến lược an ninh của họ. Các cường quốc cũng vậy. Mỹ dưới thời Chính quyền Trump sẽ tiếp tục thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở trong khi Trung Quốc thúc đẩy sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Quan niệm cho rằng các cường quốc này đang trong quá trình dẫn tới đối đầu đã lan truyền trong cộng đồng chính sách của cả hai nước. Tuy nhiên, thay vì thận trọng hơn, chúng ta có thể thấy hai nước này có lập trường cứng rắn hơn và dùng đến các biện pháp mà cho đến nay là không thể tưởng tượng được. Chẳng hạn, mức thuế rất cao mà họ áp đặt đối với nhau đã dẫn đến những rủi ro kinh tế không chỉ cho bản thân họ mà còn cho các nước khác. Xét tới quy mô của cuộc cạnh tranh này và các yếu tố khác như những biến cố, sự khó lường trong hệ thống quốc tế tăng lên cho dù hiện tại chúng ta có nhiều thông tin và dữ liệu và khoa học hơn trước. Và vì ngày càng khó lường trước nên các nước trong khu vực lựa chọn đặt cược an toàn hơn chấp nhận rủi ro hay cố thủ hơn là mở cửa.

Trong bối cảnh này, các chiến lược phòng tránh và quản lý rủi ro và ngoại giao đa phương đã trở nên hấp dẫn hơn. Các chiến lược phòng ngừa rủi ro rất hữu ích theo nghĩa các nước trong khu vực có thể thúc đẩy mối quan hệ của họ với cả Mỹ lẫn Trung Quốc mà không cần phải do dự. Một đánh giá phổ biến là nhiều quốc gia đang hết sức nỗ lực duy trì hoặc đạt được sự đảm bảo an ninh từ Washington trong khi tối đa hóa những kết nối kinh tế của họ với Bắc Kinh. Tuy nhiên, chỉ sử dụng cách đó cũng không đảm bảo cho các nước trong khu vực giảm thiểu tác động bất lợi do cuộc cạnh tranh Trung-Mỹ gây ra. Điều gì sẽ xảy ra nếu Mỹ yêu cầu các nước trong khu vực tăng cường hợp tác an ninh bằng cách chẳng hạn như cho phép thêm tàu chiến cập cảng ở các cảng của nhau? Thủ tướng Malaysia Mohamed Mahathir nói rằng ông muốn thấy nhiều tàu thương mại hơn chứ không phải tàu chiến đi lại trong khu vực. Điều gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc đề nghị nhiều dự án hơn theo sáng kiến “Vành đai và Con đường” và giải quyết những thiếu sót lớn được xác định trong các phương thức lựa chọn và thực thi dự án? Do đó, các nước trong khu vực phải kết hợp chiến lược phòng ngừa rủi ro với ngoại giao đa phương. Để tránh việc quá phụ thuộc vào Mỹ hoặc Trung Quốc, các nước như Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Indonesia và Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác với nhau. Sự hợp tác theo chiều ngang này là một cách để giảm bớt sức ép từ các cường quốc chủ chốt. Trên thực tế, các cường quốc bậc trung này có rất nhiều thứ để trao đổi với nhau. Chẳng hạn, kim ngạch thương mại hai chiều Việt-Hàn dự kiến sớm đạt 100 tỷ USD, vượt quá tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam với Nga và nhiều nước châu Âu khác, thậm chí cả thương mại của Việt Nam với Mỹ. Trong bối cảnh căng thẳng Mỹ-Trung về các mạng 5G, Việt Nam đã chọn Ericsson làm chương trình thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, các nước nhỏ hơn như Brunei và Quần đảo Solomon có ít lựa chọn hơn và có nhiều khả năng buộc phải chọn đứng về phe nào.

Một cuộc thảo luận như vậy cũng phải xem xét cách thức các nước nhìn nhận các cơ chế đa phương có sẵn trong cấu trúc an ninh khu vực ngày một phát triển. Về vấn đề này, người ta cần xem xét ít nhất là 3 trọng điểm. Thứ nhất, việc thiếu một dàn xếp an ninh bao quát, đảm bảo hòa bình và ổn định cho toàn khu vực, ASEAN mong muốn nâng cao vai trò và tính trung tâm của mình trong tình huống bất ngờ mà trong đó một dàn xếp bao quát như vậy bắt đầu định hình. Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) vẫn là diễn đàn duy nhất để các nhà lãnh đạo thảo luận về các vấn đề chiến lược trong cuộc chơi ở khu vực này. Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) không có Mỹ trong khi Bộ tứ (Quad) không bao gồm Trung Quốc. Thứ hai, trong việc phát huy vai trò của mình, ASEAN phải giải quyết những thách thức lớn do sự căng thẳng giữa các cường quốc lớn gây ra. Theo cựu Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natelagawa, ASEAN phải giành được tính trung tâm. Chẳng hạn, ASEAN ngày càng khó đạt được sự đồng thuận về vấn đề Biển Đông. Thứ ba, ngoài ASEAN, khu vực này còn có các dàn xếp cạnh tranh đa phương khác (và trong một số trường hợp là bổ sung) như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội Nam Á vì hợp tác khu vực (SAARC), Đối thoại Shangri-La, các cơ chế do Mỹ lãnh đạo (Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở, Bộ tứ, Sáng kiến hạ nguồn sông Mekong, Tập trận Vành đai Thái Bình Dương), và các cơ chế do Trung Quốc lãnh đạo (Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á, Tổ chức hợp tác Thượng Hải, Diễn đàn Hương Sơn). Một thực tế mới đang mở ra với ASEAN, khi hiệp hội khám phá sự tác động lẫn nhau của các cơ chế này, đặc biệt là liệu các điểm giao nhau cản trở hay hỗ trợ các kết quả đa phương một cách hiệu quả. Để đạt được triển vọng này, ASEAN gần đây đã áp dụng một bộ nguyên tắc khác gọi là Quan điểm của ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (AOIP) để giúp khối này tồn tại trong cuộc kình địch nước lớn. Những nguyên tắc này chủ yếu được điều chỉnh từ Hiệp ước thân thiện và hợp tác cũng như các công cụ hiện có khác với mục đích giúp ASEAN linh hoạt hơn và “câu giờ” trong quan hệ với các nước lớn.

Các chính quyền trong khu vực cũng đang tìm cách hiểu được những tác động của việc vừa phát triển công nghệ vừa khuếch tán quyền lực ở các vũ đài chính trị trong nước của họ. Trong các cuộc bầu cử gần đây nhất trong khu vực này, chẳng hạn, ở Indonesia hoặc Thái Lan, thế hệ kế tiếp nổi bật về chính trị, đặt thế hệ lãnh đạo lớn tuổi vào tình trạng báo động. Một công cụ hiệu quả được thế hệ trẻ sử dụng là truyền thông xã hội. Hàng trăm triệu người trong khu vực sở hữu các tài khoản truyền thông xã hội và bày tỏ quan điểm của họ về các chủ đề mà họ quan tâm hoặc lo ngại. Trong cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Việt Nam tại vùng biển xung quanh Bãi Tư Chính ở Biển Đông, người ta có thể dễ dàng thấy phản ứng mạnh mẽ của người dùng Facebook Việt Nam hoặc Zalo.

Năng lực mới mang lại cho người dân khả năng đóng góp ý kiến về việc phát triển và thực thi chính sách, cùng với sự hỗn loạn do các vấn đề khu vực gây ra đang buộc chính phủ khu vực phải tiếp tục sắp xếp hợp lý hóa quá trình ra quyết định của họ. Quản trị tốt, hoặc ít nhất là tốt hơn đã trở thành một yêu cầu bắt buộc thay vì chỉ là một khao khát chính sách. Chẳng hạn, khi Chính quyền Trump áp thuế bổ sung đối với hàng hóa và dịch vụ của Trung Quốc, một số doanh nghiệp đã chuyển hướng đầu tư sang các nước thứ ba như Malaysia và Việt Nam. Đến lượt mình, điều này đòi hỏi Malaysia và Việt Nam phải cải thiện khả năng thu hút nguồn vốn chuyển hướng này và giải quyết nhanh chóng các vấn đề khác liên quan đến việc biến kinh doanh thành hiện thực. Ra quyết định nhanh hơn đã trở thành một tiêu chí mới trong hoạch định chiến lược.

Tóm lại, các xu hướng mà khu vực này phải đối mặt trong năm nay không hoàn toàn khác biệt với trước đây. Tuy nhiên, đáng chú ý là một số xu hướng đang trở nên gay gắt hơn. Một trong số đó là sự kình địch ngày càng tăng giữa Mỹ và Trung Quốc. Một điều nữa là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động nhanh hơn và rộng hơn đến cuộc sống hàng ngày. Về phản ứng, các nước khác ngoài Mỹ và Trung Quốc đã tăng cường hợp tác và phối hợp với nhau để giảm sự phụ thuộc vào một trong hai cường quốc này. ASEAN đã có thể tự bảo vệ mình trước tình trạng hỗn loạn và giữ một số quan điểm về việc họ ở đâu và cần đi đâu. Tuy nhiên, vẫn đúng là những thách thức đối với khối này trở nên gay gắt hơn đối với vai trò trung tâm mà họ muốn có trong việc xây dựng cấu trúc an ninh khu vực. Các nước lớn đã thể hiện sự quan tâm hơn đến việc thúc đẩy các cách thức riêng của họ, tác động của việc này là khác nhau tùy thuộc vào từng nước. Dù là ASEAN nói chung hay các nước thành viên nói riêng như Việt Nam, nhu cầu về tư duy chiến lược và kế hoạch độc lập có thể được kỳ vọng sẽ phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG 

Tags: , , ,