Dự báo chính sách đối ngoại của chính quyền Joe Biden

Chính sách đối ngoại phải dựa trên thực trạng và thực lực của đất nước. Hiện nay, nước Mỹ đứng trước ba vấn đề lớn và cấp bách phải ưu tiên xử lý trước. 

Dự báo chính sách đối ngoại của chính quyền Joe Biden

Tác giả: Nguyễn Quang Dy. Ông Nguyễn Quang Dy từng học tập và nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Australia (ANU, 1976-1979), Đại học Harvard (Nieman Fellow, 1992-1993), công tác tại Bộ Ngoại giao (1971-2005).

Lời giới thiệu của tác giả: Cách đây gần hai năm, vào giữa nhiệm kỳ của Donald Trump, tôi đã viết một bài dài đăng làm 5 kỳ trên trang “Nghiên cứu Quốc tế” (Việt Nam và đối đầu Mỹ-Trung). Bài đó và một số bài khác đã được Derek Grossman, một chuyên gia phân tích quốc phòng của RAND, tham khảo và trích dẫn trong một báo cáo về khu vực do RAND Corporation xuất bản gần đây (Regional responses to US-China Competition in the Indo-Pacific).

Nay tôi viết bài này khi Joe Biden chuẩn bị tuyên thệ nhậm chức (20/01/2021), hy vọng góp phần làm sáng tỏ bức tranh đối ngoại của chính quyền mới. Tuy còn quá sớm để đưa ra các nhận định chủ quan, nhưng có thể dựa vào tài liệu tham khảo và cập nhật diễn biến để phác họa chính sách đối ngoại của chính quyền Biden đối với Trung Quốc và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (Indo-Pacific), vốn là tâm điểm của những bất ổn toàn cầu. Bài khảo cứu này giới thiệu những cơ sở ban đầu để phân tích và đánh giá tình hình cũng như chính sách trong bối cảnh mới.

Trong khi Chính quyền Biden chờ Thượng viện (hiện do đảng Cộng hòa vẫn nắm đa số) phê chuẩn nhân sự chủ chốt cho nội các mới, thường phải nửa năm sau thì chính quyền Biden mới chính thức có chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng mới (National Security Strategy/ National Defense Strategy). Đây là chủ đề còn đang vận động với nhiều ẩn số và biến số, nên bài này chỉ có thể phác họa một phần chính sách đối ngoại của Biden liên quan đến Trung Quốc và khu vực, trong đó Biển Đông và Việt Nam là một ưu tiên hàng đầu.

Nội dung bài viết đề cập đến 8 vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại mới, gồm: 1. Cơ sở và đặc điểm chính sách đối ngoại mới; 2. Các trụ cột của chính sách đối ngoại mới; 3. Chính sách đối ngoại vì tầng lớp Trung lưu; 4. Tầm nhìn Indo-Pacific và Bộ tứ mở rộng; 5. Đánh giá các thách thức của Trung Quốc; 6. Triển vọng quan hệ Mỹ-Trung và khu vực; 7. Triển vọng quan hệ Mỹ-Việt và Biển Đông; 8. Rủi ro trong thương mại Mỹ-Việt.

Cơ sở và đặc điểm chính sách đối ngoại mới

Ngày 14/12, cử tri đoàn các bang đã bỏ phiếu chính thức xác nhận kết quả bầu cử để Joe Biden và Kamala Harris trở thành tổng thống và phó tổng thống đắc cử. Trước đó (8/12) Toàn án Tối cao bác đơn kiện của phe Cộng hòa đòi phủ nhận kết quả bầu cử. Tuy Trump chưa thừa nhận thất bại nhưng nền dân chủ Mỹ đã thắng. Các thẩm phán tòa án tối cao trung thành với hiến pháp chứ không phải với tổng thống.

Sau một năm khủng hoảng y tế, đại dịch COVID-19 đã làm gần 20 triệu người Mỹ bị lây nhiễm và gần 350 ngàn người chết (đứng đầu thế giới) nhưng chưa dừng lại. Khủng hoảng chính trị và chiến dịch tranh cử tổng thống làm nước Mỹ chia rẽ sâu sắc. Tuy phải chờ tổng thống đắc cử tuyên thệ nhậm chức (20/01/2021) nhưng “trò chơi đã kết thúc”. Đã đến lúc người Mỹ phải gác lại bất đồng để hòa giải, nhằm hàn gắn vết thương và phục hồi đất nước.

Chính sách đối ngoại phải dựa trên thực trạng và thực lực của đất nước. Hiện nay, nước Mỹ đứng trước ba vấn đề lớn và cấp bách phải ưu tiên xử lý trước. Một là hệ quả nặng nề của đại dịch. Hai là tình trang chia rẽ sâu sắc không chỉ giữa hai đảng mà còn trong cộng đồng, do hệ quả trực tiếp của tranh cử tổng thống năm 2020. Ba là kinh tế suy thoái do hệ quả của đại dịch cũng như chiến tranh thương mại Mỹ – Trung.

Đối ngoại có lẽ chưa phải là ưu tiên số một của chính quyền Joe Biden, ít nhất trong năm đầu tiên (2021). Biden có thể kế thừa và duy trì di sản đối ngoại của Trump liên quan đến Trung Quốc và tầm nhìn Indo-Pacific, cũng như ASEAN và vấn đề Biển Đông. Nếu có thay đổi, chắc Joe Biden sẽ nhấn mạnh khẩu hiệu “Nước Mỹ Trở lại” (America is Back!) và “Xây dựng lại Tốt hơn” (Build Back Better), để củng cố quan hệ với đồng minh tại khu vưc Indo-Pacific (với Nhật, Úc, Ấn, ASEAN), và tại khu vực Eurasia (với NATO và EU).

Nếu Chính quyền Biden vẫn xác định Trung Quốc là đối thủ số một, thì phải ưu tiên các đồng minh và đối tác khu vực này theo tầm nhìn Indo-Pacific, lấy Bộ tứ (Quad) làm trụ cột (với Nhật, Úc, Ấn độ), và tăng cường đối tác chiến lược ASEAN (trong đó có Việt Nam) để đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông. Trong bối cảnh bầu cử Mỹ đầy kịch tính, Ngoại trưởng Mike Pompeo và Cố vấn An ninh Quốc gia Robert O’Brian vẫn đã thu xếp đến thăm Việt Nam và khu vực (29-30/10 và 20-22/11) nhằm trấn an đồng minh và đối tác.

Các chuyên gia vẫn chưa biết rõ liệu Biden sẽ triển khai chiến lược “tái cân bằng Châu Á – Thái Bình Dương 2.0” hay khởi động lại chiến lược “Indo-Pacific An toàn và Thịnh vượng” như gần đây Biden đã đề cập với các nguyên thủ quốc gia của “Bộ Tứ”. Về kinh tế và địa chiến lược, Chính quyền Biden có thể đàm phán lại một số điều khoản để gia nhập lại CPTPP, nhằm đối trọng với hiệp định RCEP mà Trung Quốc vừa ký với 10 nước ASEAN và 4 nước đối tác khác của ASEAN (Nhật, Hàn Quốc, Úc, Tân Tây Lan), không có Mỹ và Ấn Độ.

Theo Bill Reinsch (CSIS), Joe Biden sẽ không ký hiệp định thương mại mới nào cho đến khi có thể đàm phán trên thế mạnh với “chính sách đối ngoại vì tầng lớp trung lưu”. Nói cách khác, Joe Biden sẽ không lặp lại học thuyết của Trump/Lighthizer, cũng không quay lại chính sách truyền thống thời thời Bill Clinton. “Chúng ta sẽ đi tìm một cái gì đó mới và chưa được định nghĩa. Chúng ta có thể mất vài năm để tranh luận về nó”.

Biden đã đề cử một số nhân vật vào các vị trí chủ chốt về đối ngoại và an ninh quốc gia, phản ảnh tầm nhìn và lập trường của chính quyền mới. Tuy Biden nhấn mạnh tính đa dạng về sắc tộc và giới tính, nhưng hầu hết các nhân vật chủ chốt gồm những quan chức chuyên nghiệp đã từng phục vụ trong chính quyền Clinton và Obama, như Tony Blinken (Ngoại trưởng), Jake Sullivan (Cố vấn An ninh Quốc gia), Linda Thomas-Greenfield (Đại sứ tại LHQ), tướng Lloyd Austin (Bộ trưởng Quốc phòng), Susan Rice (Hội đồng Chính sách Đối nội), Katherine Tai (Đại diện Thương mại), John Kerry (Đặc Phái viên về Khí hậu)…

Một số nhân vật khác tuy chưa được đề cử nhưng chắc có vai trò và ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia. Đó là Michele Flournoy (CNAS CEO, cựu thứ trưởng quốc phòng thời Obama); Kurt Cambell (Asia Group CEO, cựu trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á thời Obama); Ely Ratner (CNAS Vice President, CFR fellow, cựu phó cố vấn an ninh quốc gia cho Joe Biden); Elbridge Colby (CNAS fellow, cựu phó trợ lý bộ trưởng quốc phòng, 2017-2018); Mat Pottinger (Phó Chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia)…

Chiến dịch tranh cử của Joe Biden đã quy tụ được hơn 2.000 chuyên gia các loại, biên chế thành các tiểu ban để vừa phục vụ cho tranh cử, vừa làm kho dự trữ nhân sự một khi Joe Biden đắc cử. Điều đáng lưu ý là phó tổng thống đắc cử Kamala Harris là một ủy viên công tố sắc sảo và có tư duy độc lập, nhưng cũng là một thành viên (team player) hiện đang làm quen với vị trí phó tổng thống cho Joe Biden. Tương lai của Harris còn ở phía trước, sau bốn năm nữa, nên cần tranh thủ sự ủng hộ của các cố vấn chuyên nghiệp và trung thành với Biden.

Khẩu hiệu “Nước Mỹ Trở lại” có thể hiểu là “Bộ Ngoại Giao trở lại”. Biden đề cử Blinken làm ngoại trưởng là một tin vui cho Bộ Ngoại Giao, từ nay có vai trò chủ lưu (mainstream) và làm việc chuyên nghiệp (professionalism) cùng đồng đội (teamwork), sau bốn năm bị Trump coi nhẹ (với kinh phí và nhân sự thiếu hụt). Từ nay, Nhà Trắng và nội các sẽ phối hợp chặt chẽ, với Susan Rice là “cầu nối” giữa Bộ Ngoại giao với Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC), giữa đối nội với đối ngoại. Theo Blinken, chính quyền Biden sẽ hàn gắn quan hệ với đồng minh bị rạn nứt dưới thời Trump, và phục hồi cam kết của Mỹ với các tổ chức quốc tế.

Joe Biden nhấn mạnh: “chúng ta phải chứng minh với thế giới là Mỹ sẵn sàng lãnh đạo, không chỉ bằng tấm gương về quyền lực mà bằng quyền lực của tấm gương”. Sự phát triển của chủ nghĩa độc đoán, chủ nghĩa quốc gia, và chủ nghĩa phi tự do, làm suy yếu khả năng chúng ta đối phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh, di cư ồ ạt, và đình đốn công nghệ. Trong khi lòng tin vào các thể chế dân chủ bị giảm sút thì nỗi lo sợ thể chế độc tài tăng lên. Các nền dân chủ bị tê liệt bởi chia rẽ đảng phái, què quặt bởi tham nhũng, và còng lưng bởi bất công.

Theo giáo sư Francis Fukuyama (Standford University), trong năm 2020, dân chủ đã thụt lùi so với chuyên chế, nhưng có lý do để hy vọng tình hình bắt đầu đảo ngược. Những người dân túy như Donald Trump đã dùng quyền lực làm suy yếu hàng loạt cơ quan chức năng của Mỹ như FBI, cộng đồng tình báo, các dịch vụ công, thẩm phán liên bang, và báo chí dòng chính mà tổng thống thường gọi là “kẻ thù của nhân dân Mỹ”. Cho đến nay, sự tấn công nghiêm trọng nhất là vào các thể chế dân chủ khi Donald Trump từ chối thừa nhận thất bại trong cuộc tranh cử với Joe Biden, và những cáo buộc thiếu căn cứ rằng bầu cử gian lận.

Nhưng cuối cùng, hệ thống dân chủ của Mỹ vẫn đứng vững và người Mỹ đã từ chối nhiệm kỳ thứ hai của Trump. Tuy nhiều người phe Cộng Hòa vẫn tiếp tục bác bỏ lá phiếu chính danh, nhưng Joe Biden sẽ tuyên thệ nhậm chức thổng thống vào ngày 20/1 và bắt tay vào hàn gắn những tổn thất do Trump gây ra.

Các trụ cột của chính sách đối ngoại mới

Đầu năm 2019, Tony Blinken đã viết bài phê phán chủ trương “Nước Mỹ Trên hết” (America First) của Trump và đề xuất chủ trương mới. Theo Blinken, ai lên làm tổng thống cuối năm 2020 sẽ khó đảo ngược xu hướng trước Trump và kéo dài sau Trump. Trong thế kỷ này, có những thách thức mới mà không có nước nào có thể một mình đối phó. Ngoan cố duy trì “Nước Mỹ Trên hết” với chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa đơn phương và bài ngoại, sẽ làm vấn đề trầm trọng hơn.

Blinken đề xuất một chính sách đối ngoại mới để kết nối toàn cầu có trách trách nhiệm hơn và được hầu hết người Mỹ ủng hộ. Chính sách đó phải đúc kết kinh nghiệm từ các bài học thất bại trước đây để tránh cả hai khuynh hướng đều nguy hiểm là “đối đầu” hay “thoái lui”, và phải hiểu sự khác biệt giữa “lợi ích riêng” (self-interest) và “ích kỷ” (selfishness). Trước những vấn đề của thế giới hiện nay và sai lầm của Mỹ, “chúng ta không được quên những gì đã đạt được và những gì thế giới này sẽ tạo ra, nếu Mỹ thiển cận đánh mất tương lai”.

Chính sách đó dựa trên bốn trụ cột. Một là ngoại giao phòng ngừa và răn đe. Một chính sách đối ngoại có trách nhiệm phải phòng ngừa hay ngăn chặn được khủng hoảng trước khi bị mất kiểm soát. Hai là thương mại và công nghệ. Trump coi thương mại là trò chơi thắng-thua (zero-sum) mà bên thắng kiếm được nhiều hơn bên thua. Ba là đồng minh và thể chế. Mỹ không phải đối phó hay chịu tốn kém một mình. Bốn là nhập cư và tị nạn. Mỹ phải làm quen với nạn di cư ồ ạt (hơn 70 triệu người) gây chia rẽ và bất ổn về địa chính trị.

Blinken chỉ trích lập trường của Trump về Trung Quốc là không hiệu quả (ineffective) và cho rằng chủ trương tách Mỹ khỏi Trung Quốc về kinh tế (decoupling) là không thực tế và phản tác dụng (unrealistic and counter-productive). Trump đã làm cho Trung Quốc mạnh lên về một số mặt chiến lược (key strategic goals) và làm cho quan hệ với đồng minh yếu đi, không coi trọng nhân quyền và làm tổn hại đến nền dân chủ. Theo Blinken, Mỹ phải tìm cơ hội hợp tác với Trung Quốc để kiểm soát vũ khí và đối phó với biến đổi khí hậu.

Dưới thời Obama, Tony Blinken là đồng tác giả của chính sách xoay trục sang Châu Á. Lý do chính Mỹ muốn hòa giải với Việt Nam vì Hà Nội có tiếng nói mạnh nhất ASEAN chống lại Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông. Trong dịp trao đổi với Walter Russell Mead tại Hudson Institute (9/7/2020) Blinken nói “Có sự đồng thuận ngày càng cao giữa các bên rằng Trung Quốc có một loạt thách thức mới nên rất khó duy trì nguyên trạng”.

Dưới thời Biden, để triển khai chính sách đối ngoại vì tầng lớp trung lưu, Mỹ sẽ gắn kết thương mại với phục hồi kinh tế làm nhiệm vụ hàng đầu. Nếu Robert Lighthizer là một “deal maker” thì Katherine Tai là một “team player”. Thương mại là một công cụ đối nội hoặc đối ngoại, tự nó không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để tạo ra cơ hội. Dưới thời Biden, sự phân định ranh giới giữa thương mại (Katherine Tai) và đối ngoại (Tony Blinken), giữa đối nội (Susan Rice) và an ninh quốc gia (Jake Sullivan) sẽ càng mờ nhạt.

Tuy Katherine Tai có bề dầy kinh nghiệm đàm phán thương mại, đặc biệt là với Trung Quốc, nhưng chắc sẽ không được phe Cộng hòa ủng hộ như với Lighthizer trong các vấn đề thương mại với Trung Quốc. Trừ phi phe Dân chủ giành được hai ghế của phe Cộng hòa tại bang Georgia để nắm đa số tại Thượng viện, Joe Biden sẽ gặp trở ngại tại Thượng viện nếu phe Cộng hòa vẫn kiểm soát cơ quan này như trước. Tuy chủ trương chống Trung Quốc đã trở thành đồng thuận lưỡng đảng trong Quốc hội, sự phân hóa giữa hai đảng là một thực tế.

Để đối phó với Trung Quốc đang trỗi dậy, Tony Blinken có ý tưởng thiết lập “một mặt trận thống nhất gồm các nước dân chủ” (a formal concert of liberal nations) để đối phó với “chủ nghĩa dân tộc hoang dã” (brute nationalism). Việc xóa bỏ những di sản cực đoan và thiếu nhất quán của Trump trong bốn năm qua là cần thiết, nhưng chính quyền Biden chắc không theo xu hướng “thực dụng giả tạo” (deceptive pragmatism) thời Obama, mà có thể giống lựa chọn của Bill Clinton, dung hòa giữa xu hướng lý tưởng (idealism) và hiện thực (realism).

Theo Alexander Vuving (Trung tâm APCSS), tuy các nước lớn là tác nhân quyết định hệ thống quốc tế, nhưng sự thăng trầm của họ và cân bằng lực lượng giữa họ cũng chịu tác động mạnh bởi các tác nhân khác làm thay đổi hệ thống. Có ba loại cấu trúc chính định hình quan hệ giữa các nước lớn. Một là hệ thống các tín điều của giới tinh hoa và dân chúng. Hai là cấu trúc chiến lược hình thành từ sự tương tác của trật tự giữa các nước lớn có liên quan. Hiểu được cấu trúc chiến lược trong cạnh tranh nước lớn sẽ giúp trả lời câu hỏi cơ bản liên quan đến chiến tranh và hòa bình. Ba là cạnh tranh nước lớn cũng bị định hình bởi địa lý, như hình thái đất, biển, và địa hình sẽ cho đấu trường cạnh tranh nước lớn một hình thái độc đáo.

Về hình thái cấu trúc, tiền lệ gần nhất về cạnh tranh nước lớn ở Châu Á là sự đối đầu đang diễn ra giữa Nhật Bản và Trung Quốc cũng như giữa Nhật Bản và Nga trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Nhật Bản là một cường quốc hải đảo lúc đó trỗi dậy, trong khi Trung Quốc là một cường quốc đất liền hiện đang trỗi dậy. 90% dầu thô nhập khẩu cho Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc, gần 2/3 nguồn cung năng lượng cho Hàn Quốc, 60% nguồn cung năng lượng cho Nhật Bản và Đài Loan, và 4/5 thương mại của Đông Nam Á đều qua Biển Đông. Theo Alexander Vuving, “Ai kiểm soát được Tây Thái Bình dương và Đông Ấn Độ dương sẽ làm chủ Châu Á; Ai làm chủ Châu Á sẽ kiểm soát vận mệnh thế giới”.

Trong một cuốn sách mới xuất bản The China Nightmare: The Grand Ambitions of a Decaying State, giáo sư Blumenthal (American Enterprise Institute) đã phân tích nghịch lý Trung Quốc. Đó là một cường quốc quyết đoán và tham vọng nhưng tiềm ẩn những điểm yếu có thể chặn lại sự trỗi dậy hay đẩy nhanh sự suy tàn. Theo Blumenthal, tuy bên trong Trung Quốc ngày càng yếu, nhưng bên ngoài vẫn đầy tham vọng chiến lược. Vì vậy, Mỹ và các đồng minh phải cảnh giác vì “các cường quốc đang suy tàn vẫn nguy hiểm như các cường quốc đang trỗi dậy”.

Theo giáo sư Rana Mitter (University of Oxford), quyền lực của Trung Quốc gồm quan hệ nhân quả giữa bốn yếu tố là chủ nghĩa độc đoán (authoritarianism), chủ nghĩa tiêu thụ (consumerism), tham vọng toàn cầu (ambition), và công nghệ (technology), gọi tắt là mô hình ACGT. Các yếu tố đó kết hợp lại để hình thành bản sắc chính trị và cách tiếp cận của Trung Quốc đối với thế giới. Xu thế ngày càng độc đoán dưới thời Tập Cận Bình chỉ dẫn đến một tương lai duy nhất cho Trung Quốc. Lãnh đạo Trung Quốc muốn củng cố quyền lực không chỉ trong nước mà còn tham vọng toàn cầu. Điều đó không có gì mới. Tầm nhìn của Trung Quốc còn dẫn đến một tham vọng khác là Trung Quốc muốn lãnh đạo thế giới thứ ba (global South).

Trở ngại lớn nhất với Trung Quốc không phải là sự thù địch của Mỹ và các nước đồng minh, mà chính là chủ nghĩa độc đoán (authoritarianism). Sự cam kết của Bắc Kinh đối với yếu tố cốt lõi đó của bản sắc Trung Quốc gây khó khăn lớn cho ba yếu tố còn lại (là chủ nghĩa tiêu thụ, tham vọng toàn cầu, và công nghệ) để kết hợp bên trong thành công sẽ gây hận thù với thế giới bên ngoài và tạo ra hàng rào ngăn cách giữa Trung Quốc và thế giới mà nó muốn kiến tạo.

Trong thập niên đầu của thế kỷ 21, Trung Quốc đã tự hào về sự phát triển của báo chí điều tra (investigative journalism), xã hội dân sự (civil society) và mạng xã hội (social media) dù chưa có dân chủ thực sự. Tuy đảng cộng sản không có khả năng trở thành đảng dân chủ xã hội, nhưng điều đó không có nghĩa là Trung Quốc không thể trở lại hình thái trước đây. Nói cách khác, chủ nghĩa độc đoán của Trung Quốc trước năm 2012 đỡ khó chịu hơn đối với nhân dân trong nước cũng như thế giới bên ngoài. Chủ nghĩa độc đoán cực đoan khi kết hợp với bành trướng đối đầu đã làm xấu đi các yếu tố khác của mô hình Trung Quốc muốn nhấn mạnh chủ nghĩa tiêu thụ nhằm cải thiện đời sống vật chất. Tương lai của Trung Quốc phụ thuộc vào việc kết hợp thành công các yếu tố khác của mô hình ACGT. Nhưng lúc này, chủ nghĩa độc đoán đe dọa hạn chế khả năng Bắc Kinh kiến tạo một hình thức khả thi cho trật tự thế giới.

Chính sách đối ngoại vì tầng lớp trung lưu

Để lãnh đạo thế giới, chính sách đối ngoại của chính quyền Biden sẽ khác với Obama và Trump là dựa trên “tầng lớp trung lưu” (middle class) như “tài sản lớn nhất của chúng ta”. Ngoại giao là công cụ đầu tiên của quyền lực Mỹ. Joe Biden hứa sẽ nâng ngoại giao lên làm công cụ số một của chính sách đối ngoại, và tái đầu tư vào Bộ Ngoại giao, bị Chính quyền Trump làm “rỗng ruột” và đặt Bộ Ngoại giao Mỹ vào tay các nhà ngoại giao chuyên nghiệp.

An ninh kinh tế là an ninh quốc gia, nên chính sách thương mại phải bắt đầu từ trong nước. Vấn đề là ai sẽ viết ra các quy tắc thương mại? Biden khẳng định “Mỹ chứ không phải Trung Quốc sẽ dẫn đầu công việc đó. Mỹ phải cứng rắn với Trung Quốc. Không có lý do gì Mỹ lại tụt hậu so với Trung Quốc hay bất cứ ai”. Cách hiệu quả nhất để đối phó với Trung Quốc là xây dựng một mặt trận thống nhất gồm các nước đồng minh và đối tác của Mỹ để ngăn chặn các hành động vi phạm luật pháp và nhân quyền của Trung Quốc. Mỹ chiếm 1/4 GDP toàn cầu, nên khi liên kết với các nền dân chủ khác, sức mạnh Mỹ sẽ tăng lên gấp bội.

Để phát huy vai trò của tầng lớp trung lưu Mỹ, các nhà ngoại giao Mỹ phải có chính sách đối ngoại mới “ít tham vọng hơn” (less ambitious), dựa vào tầng lớp trung lưu để xây dựng lại lòng tin trong nước và ngoài nước. Chính sách này đã được nghiên cứu và đề xuất trong một báo cáo gần đây của quỹ Carnegie Endowment, “Làm cho Chính sách Đối ngoại của Mỹ phù hợp hơn với tầng lớp Trung lưu”.

Nhóm tác giả tại Carnegie Endowment gồm 11 người, trong đó có Jake Sullivan, vừa được Biden đề cử làm Cố vấn An ninh Quốc gia. Theo các nhà phân tích, báo cáo đề cập đến ba đặc điểm nổi bật. Một là toàn cầu hóa không có lợi cho nhiều người Mỹ. Hai là khuyến nghị nhóm đối ngoại phối hợp chặt chẽ với nhóm đối nội và nhóm kinh tế để Mỹ có một chính sách nhất quán hơn. Ba là phải xây dựng “một đồng thuận chính trị mới” trên cơ sở chính sách đối ngoại có lợi cho tầng lớp trung lưu.

Báo cáo này đưa ra năm khuyến nghị cơ bản. Một là phải mở rộng cuộc tranh luận vượt ra khỏi vấn đề thương mại. Hai là phải xử lý hệ quả phân phối trong chính sách kinh tế đối ngoại. Ba là phải phá vỡ những “lô cốt” về đối nội và đối ngoại, Bốn là phải từ bỏ các nguyên tắc tổ chức đã lỗi thời trong chính sách đối ngoại. Năm là phải xây dựng đồng thuận chính trị mới trên cơ sở chính sách đối ngoại dựa vào tầng lớp trung lưu Mỹ. Tóm lại, các khuyến nghị của nhóm tác giả soạn thảo báo cáo này đề xuất một kế hoạch xây dựng lại lòng tin.

Trong báo cáo, Jake Sullivan lập luận về sự “cộng sinh quản trị được” (managed coexistence) giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy Trung Quốc là “đối thủ đáng gờm” (formidable competitor) nhưng cũng là “đối tác thiết yếu” (essential patner). Khái niệm này tương tự như “cạnh tranh qua hợp tác” (cooperative competition) mà Trung Quốc thường đề cập (với hàm ý hợp tác G-2). Trước khi chết, Richarrd Nixon thừa nhận đã tạo ra Frankenstein bằng cách mở cửa cho Trung Quốc hội nhập thế giới. Trump cũng thừa nhận sai lầm lớn nhất của chính sách đối ngoại Mỹ sau Thế chiến II là tạo ra con quái vật bằng cách giúp Trung Quốc trỗi dậy.

Trong số các nhân vật được Biden đề cử, có hai trường hợp đáng lưu ý, chứng tỏ báo cáo này của Carnegie Endowment có ảnh hưởng lớn. Một là Jake Sullivan (đồng tác giả của báo cáo, làm cố vấn cho Biden trong suốt chiến dịch tranh cử) được đề cử làm cố vấn an ninh quốc gia. Hai là Susan Rice (chuyên gia về đối ngoại, cựu cố vấn an ninh quốc gia cho Obama), được Biden đề cử làm giám đốc Hội đồng Chính sách Đối nội tại Nhà Trắng. Susan Rice sẽ làm “cầu nối” giữa nhóm đối nội với nhóm kinh tế và nhóm an ninh quốc gia, phối hợp chặt chẽ với Jake Sullivan và Brian Deese được đề cử làm giám đốc Hội đồng Kinh tế.

Phát biểu trong dịp được đề cử, Susan Rice nhấn mạnh: “trong thế kỷ 21, các yêu cầu về đối nội, đối ngoại, và kinh tế sẽ gắn chặt với nhau”. Cũng với tinh thần đó, Biden đã đề cử Katherine Tai làm Đại diện Thương mại (USTR). Theo Biden, “Thương mại là một trụ cột thiết yếu trong kế hoạch của chính quyền mới để “Xây dựng lại Tốt hơn” nhằm triển khai một chính sách đối ngoại vì tầng lớp trung lưu.

Từ khi đắc cử, Biden thường nói với người Mỹ rằng “sự giúp đỡ đang đến”. Chính sách đối ngoại vì tầng lớp trung lưu nhằm đáp ứng vấn đề này. Theo báo cáo của Carnegie, chính quyền Trump hầu như không được sự ủng hộ của đa số người Mỹ để đổi mới chính sách đối ngoại. Muốn khôi phục tính nhất quán và ổn định trong chính sách đối ngoại, phải có sự ủng hộ rộng rãi của người dân. Có lẽ lối thoát duy nhất và tốt nhất lúc này để xây dựng sự ủng hộ đó là làm cho chính sách đối ngoại phù hợp với tầng lớp trung lưu Mỹ.

Tuy báo cáo đó không đề cập đến việc Mỹ có gia nhập CPTPP hay không, nhưng người Mỹ từ thành thị đến nông thôn đều cho rằng các chính quyền trước chưa làm đủ để chính sách đối ngoại có ích cho giới trung lưu. Nhu cầu “đồng thuận chính trị mới” là do các đồng minh và đối tác trên thế giới không còn tin vào các thỏa thuận với Washington, vì họ lo ngại thỏa thuận với chính quyền trước sẽ không bền vững khi Mỹ chuyển sang chính quyền sau. Vì vậy, họ phải tiếp tục đánh cược để duy trì quan hệ với Mỹ trong khi vẫn quan hệ với Trung Quốc và các đối thủ khác của Mỹ.

Theo Bilahari Kausikan (cựu Bí thư Thường trực Bộ Ngoại giao Singapore), Chính quyền Biden sẽ phản ứng tích cực hơn về “vai trò trung tâm của ASEAN” và đỡ tiêu cực hơn về các hiệp định thương mại CPTPP và RCEP. Mỹ sẽ tiếp tục chống Trung Quốc tại Biển Đông và sông Mekong. Tuy Chính quyền Biden chú trọng xây dựng quan hệ với đồng minh, nhưng họ có thể đẩy ASEAN xuống “vị trí ưu tiên hạng hai”, trừ phi ASEAN vận dụng quyết tâm chính trị của cả khối để hỗ trợ các mục tiêu của Mỹ.

Tuy Biden đề cử các nhà ngoại giao chuyên nghiệp làm làm Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng, nhưng họ chẳng có kinh nghiệm gì đặc biệt và quan hệ gắn bó với Đông Nam Á. Bộ trưởng Quốc phòng được đề cử cũng không có kinh nghiệm gì về Châu Á ngoài Trung Đông. Chẳng ai trong số họ quan tâm đến chính sách ngoại giao thận trọng và từ tốn của ASEAN mà trong đó hình thức và thủ tục cũng quan trọng như kết quả. Cũng như những người tiền nhiệm, họ ưu tiên quan hệ song phương với các nước đồng minh lớn hơn như Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, và Ấn Độ. Các nước đó sẽ tiếp tục được Mỹ quan tâm hơn ASEAN. Trước mắt, Joe Biden sẽ ưu tiên hơn cho y tế trong nước và hậu quả kinh tế do đại dịch.

Chính quyền Biden sẽ chịu nhiều sức ép từ đảng Cộng Hòa và cánh tả của đảng Dân Chủ. Việc Biden sẽ xoa dịu cánh tả thế nào sẽ tác động đến Đông Nam Á. Vì vậy, ASEAN không nên phản ứng thái quá nếu Chính quyền Biden không ưu tiên ASEAN như mong đợi. Cái bóng Trung Quốc sẽ tiếp tục trùm lên Đông Nam Á, như một mối lo hay một cơ hội, để tái cân bằng hay để tương tác. Chỉ có những ai quá tham nhũng hay quá ngây thơ mới tin vào tuyên truyền của Bắc Kinh về “một cộng đồng cùng chung vận mệnh”. Hầu hết các nước ASEAN đều hiểu rằng sự có mặt của Mỹ ở Đông Nam Á vẫn là yếu tố không thể thay thế để cân bằng lực lượng, và sự cân bằng đó là điều kiện thiết yếu để quan hệ với Trung Quốc.

Tầm nhìn Indo-Pacific và Bộ tứ mở rộng

Tầm nhìn Indo-Pacific với Bộ tứ (Quad) làm nòng cốt, phản ánh xu hướng đối đầu chiến lược Mỹ-Trung bắt đầu từ chủ trương “xoay trục sang Châu Á” (pivot hay rebalance) dưới thời Obama, tuy các chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải (FONOP) vẫn là “tiếng kèn ngập ngừng”. Dưới thời Trump, mật độ tuần tra và tập trận tăng lên cả về số lượng và chất lượng, gồm tàu sân bay USS Carl Vinson và USS Ronald Reagan đến thăm Đà Nẵng, nhưng không đủ răn đe Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa các đảo nhân tạo mà họ chiếm đóng trái phép và kiểm soát Biển Đông như ao nhà của họ.

Trong hai năm qua, không chỉ có các nước Bộ tứ (Mỹ, Nhật, Úc, Ấn) tham gia tuần tra và tập trận ở Biển Đông và vùng Indo-Pacific, mà có 9 nước khác trong khối EU cũng tham gia, đặc biệt trong đó có hải quân Anh và Pháp. Trong năm 2020, Trung Quốc đã lợi dụng đại dịch COVID-19 để đưa tàu thăm dò và tàu hải giám vào hoạt động liên tục trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước Việt Nam, Malaysia, Philippines, và Indonesia.

Khi Joe Biden đối thoại với Thủ tướng Úc Scott Morrison, Thủ tướng Nhật Suga Yoshihide, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in (tháng11/2020), ông đã sử dụng cụm từ “Indo-Pacific”, như cố ý khẳng định sự nhất quán để kế tục tầm nhìn Indo-Pacific. Nhưng Joe Biden đã tế nhị thay hai chữ “tự do và rộng mở” (free and open) bằng hai chữ “an toàn và thịnh vượng” (secure and prosperous).

Theo các nhà phân tích, tuy bốn ngoại trưởng Bộ tứ gặp tại Tokyo (6/10/2020) đã đề cập đến khái niệm “Secure and Prosperous” nhưng diễn ngôn nói trên của Joe Biden có hai ý nghĩa đáng lưu ý. Một là ông khẳng định lập trường của chính quyền mới về “Tầm nhìn Indo-Pacific” trước thách thức chiến lược làTrung Quốc. Hai là nhân dịp này ông điều chỉnh tầm nhìn đó một cách thực dụng và thiết thực hơn với quan điểm và lợi ích của các nước khu vực. Theo Alexander Vuving (twitter 19/11): “Cách diễn đạt này phù hợp hơn với lãnh đạo Châu Á vì họ coi trọng “An toàn và Thịnh vượng” hơn “Tự do và Rộng mở”.

Theo Giáo sư Graham Allison (Belfer Center, Harvard), hai siêu cường cũ và mới là Mỹ và Trung Quốc có xu hướng bá quyền nên khó thoát “bẫy Thucydides”. Alexander Vuving phản biện rằng lý thuyết của Graham Allison sai vì dựa trên giả thuyết nhầm lẫn. Nguy cơ chiến tranh tồn tại theo thuyết chọi gà (chicken game), phụ thuộc vào sai lầm của con người, khuyết tật của máy móc, hay yếu tố ngoài hệ thống, chứ không phải do “bẫy Thucydides”.

Cạnh tranh nước lớn tiếp tục tồn tại dưới dạng chạy đua vũ trang, chiến tranh ủy nhiệm, và “chiến tranh bằng phương tiện khác”. Tham vọng và sáng tạo của con người sẽ tìm ra cách để các cường quốc theo đuổi “cạnh tranh không tốn kém” như chiến tranh gián tiếp, chiến tranh tâm lý, chiến tranh kinh tế. Chiến tranh hạt nhân giữa hai cường quốc có thể hủy diệt cả hai, nên cạnh tranh nước lớn như “thế lưõng nan của người tù” (prisoner’s dilemma) biến thành trò chơi “chọi gà” (chicken game). Nếu chiến tranh không thể tránh khỏi vì cạnh tranh giữa các nước lớn được thiết chế theo trò chơi “prisoner’s dilemma” thì hòa bình cũng có thể đạt được qua cạnh tranh giữa các nước lớn được thiết chế theo trò chơi “chicken game”.

Quan niệm về bá quyền đã ăn sâu vào tâm trí người Trung Quốc và nay được thể hiện ra bằng “Giấc mộng Trung Hoa”. Về cơ bản, Mỹ có hai lựa chọn chiến lược. Nếu Mỹ muốn đứng đầu bằng cách phân chia quyền lực với Trung Quốc thì phải chơi trò “chicken game” đối xứng. Nhưng nếu Mỹ muốn phân chia quyền lực với Trung Quốc theo vị trí đứng đầu thì phải chơi trò bất đối xứng (asymmetric) mà Alexander Vuving gọi là trò chơi “peace-lover’s dilemma”. Xét về chiến lược, nếu một bên leo thang và bên kia xuống thang, thì bên nào hiếu chiến hơn sẽ thắng thế và sẽ tìm cách biến kết quả đó thành nguyên trạng.

Vậy Mỹ hành xử thế nào khi Trung Quốc hiếu chiến và leo thang? Một là Mỹ chịu thua Trung Quốc về cái gọi là “lợi ích cốt lõi” để tránh đối đầu. Nếu buộc phải ngã ngũ thì Mỹ sẽ chia sẻ quyền lực với Trung Quốc hoặc không theo đuổi “Hòa bình Kiểu Mỹ”. Sự lựa chọn chiến lược đó sẽ biến trò chơi “chicken game” đối xứng thành trò chơi “peace-lover’s dilemma” bất đối xứng. Một chiến lược khác tốt hơn có thể ngăn chặn chiến tranh cũng như việc Trung Quốc cầm đầu là phải đứng vững (hold the line) khi Trung Quốc thử gân, và sẵn sàng đáp trả sự leo thang của Trung Quốc bằng sự leo thang của Mỹ, tuy vẫn để ngỏ kênh đàm phán.

Trên thực tế, sự quyết đoán (assertiveness) sẽ thành công trong trò chơi “chicken game”. Theo Alexander Vuving, Trung Quốc đã chứng tỏ thành công lớn bằng hành động “hiếu chiến nhưng không quá hiếu chiến” được vận dụng trong “vùng xám” (gray zone) giữa chiến tranh và hòa bình. Cách ứng xử trong vùng xám là vận dụng khoảng cách giữa bản chất hữu biến của thực tế và tính chất bất biến của luật lệ, tiêu chí, và quy ước.

Vùng xám thường có ba chiều, và bậc thầy trò chơi “chicken game” phải vận dụng cả ba chiều của vùng xám, với các chiến thuật như chuyện đã rồi (fait accompli), cắt lát salami, và bắp cải, bằng cách bao bọc mục tiêu như các lớp bắp cải bao gồm lực lượng dân sự ở trong cùng, lực lượng dân quân ở giữa, và lực lượng quân sự ở ngoài. Dựa trên các nguyên lý như loại trừ (deniability), ngụy trang (camouflage), vô hình (stealth), vô phương (indirection), tiệm cận (gradualism), và chuyện đã rồi (fait accompli), các chiến thuật này và chiến thuật khác được sáng tạo hay tái tạo để có ý nghĩa chiến lược trong các thập kỷ tới.

Chiến tranh quy ước quá rủi ro trong thời đại hạt nhân, nên chiến tranh “bằng phương tiện khác”, như chiến tranh chính trị, chiến tranh thông tin, chiến tranh tâm lý, chiến tranh kinh tế, chiến tranh pháp lý, có thể biến các phương tiện dân sự như báo chí, du lịch, đại học, tổ chức quốc tế, thành vũ khí thiết yếu để giành quyền lực. Một chiến thuật hiệu quả trong trò chơi “chicken game” là “riskfare”, được Trung Quốc vận dụng để có lợi thế. Riskfare là cách vận dụng rủi ro làm đối phương lo sợ không dám leo thang. Lo sợ leo thang lan nhanh ở các xã hội cởi mở và các nước nhỏ hơn, nên Trung Quốc có lợi thế trong việc biến lo sợ thành vũ khí để đạt được mục đích mà không cần sử dụng lực lượng quy ước.

Gần đây, Quốc Hội Mỹ đã thông qua “Đạo luật Chuẩn chi Quốc phòng” (NDAA 2021), để triển khai “Sáng kiến Răn đe Thái Bình Dương” (Pacific Deterrence Initiative), trong đó có kế hoạch cải tổ Hạm đội 1 theo tầm nhìn Indo-Pacific. Vấn đề là (1) Chính quyền Biden có xem xét lại quyết định về Hạm đội 1 hay không, và (2) sẽ chọn nơi nào làm căn cứ đóng quân cho Hạm đội 1. Sự hiện diện của Hạm đội 1 không chỉ có ý nghĩa chiến lược mà còn thúc đẩy đầu tư hạ tầng, tăng thêm việc làm, và nâng cao mức sống người dân.

Kenneth Braithwaite (Bộ trưởng Hải quân Mỹ) đã thông báo tại Tiểu ban Quân lực Thượng viện (2/12/2020) về quyết định cải tổ Hạm đội 1, sau khi Ngoại trưởng bốn nước Bộ tứ đã họp tại Tokyo (tháng 10/2020). Hiện nay Singapore và Úc đều muốn làm nước chủ nhà cho Hạm đội 1. Theo các chuyên gia, Singapore thuận tiện cho việc sửa chữa tàu và tiếp liệu, lại gần eo Malaca, nhưng hải lộ chật hẹp, mật độ tàu thuyền quá đông và quá gần Trung Quốc. Trong khi đó, cảng Darwin (Bắc Úc) hoặc Perth (Tây Úc) có cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt và phù hợp với chiến lược Indo-Pacific. Nhưng hồi năm 2015 lãnh thổ Bắc Úc đã cho tập đoàn Landbridge của Trung Quốc thuê cảng Darwin trong 99 năm với giá A$506 triệu.

Quyết định gây tranh cãi này của Úc đã làm Washington tức giận và phản ứng vì Canberra không tham khảo ý kiến Mỹ trước trong khi Mỹ đã chọn Darwin làm nơi đồn trú cho 2.500 thủy quân lục chiến để luân chuyển hàng năm, và tham gia tập trận với quân đội Úc (Pitch Black exercises). Tuy chưa biết Mỹ sẽ chọn phương án nào, nhưng gần đây Úc đang điều chỉnh chiến lược vì quan hệ Úc-Trung ngày càng căng thẳng dưới thời chính phủ Morrison, và lập trường của Washington ngày càng cứng rắn trước thái độ của Trung Quốc.

Gần đây Đại tướng Mark Milley (Tổng tham mưu trưởng liên quân Mỹ) đề xuất: (1) thay đổi thời hạn điều động quân nhân Mỹ đồn trú tại châu Á từ dài hạn (khoảng ba năm) thành ngắn hạn (chín tháng), và (2) mở rộng phạm vi có mặt của quân đội Mỹ không chỉ ở Nhật, Nam Hàn (có căn cứ quân sự) mà còn có nhiệm vụ tăng cường huấn luyện cho quân đội một số nước khác (như Việt Nam, Papua New Guinea, Palau, Bangladesh) để nâng cao khả năng tương tác về viễn thám, phòng không, pháo binh, công binh, theo kế hoạch huấn luyện “Pacific Pathways” của Bộ chỉ huy Hỗ trợ An ninh (Security Force Asistance Command).

Theo Derek Grossman, các nước Bộ Tứ hợp tác với Việt Nam, Hàn Quốc, NewZealand, trong khuôn khổ Bộ tứ Mở rộng theo tầm nhìn Indo-Pacific, trước mắt để chống đại dịch COVID-19, nhưng về lâu dài đáp ứng nhu cầu hợp tác giữa các nước cùng quan điểm và lợi ích chung, để đảm bảo an ninh hàng hải (tuần tra chung và tập trận). Trong khi các nước khu vực thận trọng trước việc thay đổi chính quyền ở Washington có thể tác động đến kế hoạch triển khai Hạm đội 1, Trung Quốc đã thành công trong việc thúc ép các nước khu vực ký RCEP.

Đánh giá các thách thức đến từ Trung Quốc

Thời chiến tranh lạnh, để đối phó với Liên Xô, George Kennan đã viết “Nguồn gốc Hành vi của Liên Xô”, sau đó đã trở thành kinh điển. Nay để đối phó với Trung Quốc, một số tác giả bắt chước Kennan lý giải hiện tượng Trung Quốc trỗi dậy và đề xuất cách đối phó. Giáo sư Odd Arne Westad (Đại học Yale) viết The Sources of Chinese Conduct (Nguồn gốc hành vi của Trung Quốc).

Tháng 11/2020, Vụ Hoạch định Chính sách Bộ Ngoại giao Mỹ đã báo cáo về “Các khía cạnh của thách thức từ Trung Quốc” cho rằng Trung Quốc muốn thay đổi trật tự thế giới để phục vụ mục tiêu độc đoán và tham vọng bá quyền của họ. Theo Odd Arne Westad, để đối phó với Trung Quốc, Mỹ không thể hành động một mình.

Tuy báo cáo của Bộ Ngoại giao chuẩn bị cho “nhiệm kỳ hai của Trump”, nhưng nó liên quan đến các vấn đề của chính quyền Biden. Có lẽ chỗ yếu nhất của báo cáo là ý tưởng “dùng giải pháp của thế kỷ 20 để giải quyết vấn đề của thế kỷ 21”. Dù nhận định của báo cáo gần đúng với sự thật, nhưng giải pháp mà nó đề xuất có thể thất bại vì Bộ Ngoại giao đã hiểu sai về Bắc Kinh. Vì vậy, cần xem xét các mục tiêu cơ bản của Bắc Kinh là gì?

Một là, Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy để kinh tế mạnh hơn và củng cố sự lãnh đạo lâu dài của đảng ở trong nước. Hai là, Trung Quốc tiếp tục triển khai sức mạnh vượt trội tại Châu Á gồm phía Tây Thái Bình Dương, khu vực Trung Á và Đông Nga, vùng Himalaya và Ấn Độ Dương. Các mục tiêu này khá thuận lợi vì Nga và Nhật đều ốm yếu, còn Mỹ thì thất thường. Nhưng thái độ của Trung Quốc còn bị tác động bởi các yếu tố trong nước. Vì vậy, nếu báo cáo chỉ đổ lỗi cho sai lầm của Mỹ thì không chỉ chủ quan và sai lầm mà còn nguy hiểm.

Cách tốt nhất để Mỹ triển khai chiến lược là lợi dụng mâu thuẫn giữa hai mục tiêu cơ bản của Trung Quốc là vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bành trướng ra ngoài. Mỹ cần tăng sức ép để buộc Trung Quốc phải chọn giữa hai mục tiêu đó. Chính quyền Biden cần nỗ lực hơn chính quyền Obama và Trump để giúp các nước Châu Á chống lại sức ép của Trung Quốc, như tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ tại Indo-Pacific và thúc đẩy thương mại, đầu tư, công nghệ, khuyến khích Trung Quốc tuân thủ hiệp định và trừng phạt nếu họ vi phạm.

Báo cáo đề xuất rằng lợi ích của Mỹ là phải hủy bỏ và xây dựng lại có chọn lọc các thể chế quốc tế hiện hành. Với so sánh lực lượng hiện nay, đó là một ý tưởng điên rồ. Việc chính quyền Trump không thiết tha ủng hộ các tổ chức khu vực như EU và ASEAN nhằm tăng cường hợp tác đa phương, cũng là một sai lầm. Mỹ chỉ dựa vào sức mình là quá sức do thực tế hiện nay không giống thời Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Lúc đó, Mỹ chiếm gần 50% GDP toàn cầu, nhưng Mỹ vẫn cần sự hỗ trợ của các nước đồng minh để giành thắng lợi.

Hiện nay, Mỹ chỉ chiếm một tỷ trọng GDP bằng một nửa thời trước. Nếu kinh tế Mỹ không đổi mới thì nó sẽ tiếp tục đà suy thoái. Hơn nữa, hệ thống chính trị gồm hai đảng của Mỹ không ổn định, và Washington không đủ năng lực để đối phó với đại dịch COVID-19, làm bộc lộ những điểm yếu của Mỹ. Hiện nay, đối với các nước trên thế giới, các chính sách và thể chế của Mỹ không còn là hình mẫu để họ noi theo. Việc báo cáo đề cao các chính sách của Mỹ nhằm “đem lại tự do” đã hoàn toàn bỏ qua một thực tế cơ bản hiện nay là Mỹ chỉ có thể cạnh tranh hiệu quả với Trung Quốc nếu họ chịu cải cách thể chế trong nước.

Theo Joseph Nye (cựu thứ trưởng quốc phòng), nhiều đồng minh tự hỏi điều gì đang xảy ra với nền dân chủ Mỹ. Nếu Mỹ đã sinh ra một lãnh đạo như Donald Trump năm 2016 thì liệu có thể lặp lại vào năm 2024 hay 2028? Phải chăng nền dân chủ suy thoái, làm cho Mỹ không còn đáng tin. Nhưng bất chấp dự đoán của cánh tả về sự suy sụp và của cánh hữu về sự gian lận, nền dân chủ Mỹ đã chứng tỏ sức sống bền bỉ. Nếu Trump kiểm soát được đảng Cộng hòa và nếu Cộng hòa vẫn nắm đa số tại Thượng viện thì Biden sẽ rất khó khăn. Điều đó lý giải tại sao tranh cử tại bang Georgia lại quan trọng như vậy.

Để đánh giá về nguồn gốc sức mạnh của Trung Quốc, James Homes (Đại học Hải chiến) đã nhận định: “Bắc Kinh muốn thắng mà không cần phải đánh”. Bắc Kinh tin tưởng có thể thắng dù Trung Quốc yếu hơn Mỹ về tổng thể, vì Quân đội Trung Quốc (PLA) có thể đảo ngược so sánh lực lượng tại chiến trường để áp đảo đối phương tại nơi và lúc quyết định. Trung Quốc có thể tồn tại lâu hơn Mỹ bằng “chiến tranh nhân dân trên biển”, một học thuyết được Bắc Kinh vận dụng để đối phó với liên minh gồm Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ…

PLA ngày nay có nhiều sự lựa chọn hơn Hồng quân trước kia. Thay vì chiến tranh nhân đân thuần túy kiểu Mao, PLA sẽ vận dụng tổng hợp các đơn vị lớn/nhỏ gồm tuần duyên, hải giám, và “dân quân biển” để đối phó với liên mình do Mỹ cầm đầu. Chiến sự có thể xảy ra khi “ngoại giao bằng cái gậy bé” (small-stick diplomacy) được Trung Quốc vận dụng để kiểm soát vùng biển họ đòi chủ quyền. Một khi điều đó trở thành “bình thường mới” hay “chuyện đã rồi” (fait accompli) thì nó sẽ có chính danh.

Theo báo chí, các nước phương Tây trước đây thường tránh làm mất lòng Bắc Kinh, nay đang xích lại gần hơn lập trường cứng rắn của Mỹ đối với Trung Quốc. Nếu trước đây, lãnh đạo EU coi Trung Quốc là “cơ hội” thì nay họ coi Trung Quốc là “đối thủ”. Năm ngoái, một báo cáo về chính sách của EU đã không coi Trung Quốc là đối tác (partner) hay đối tượng cạnh tranh (competitor) mà là “đối thủ hệ thống” (system rival). Khi một nhà ngoại giao Trung Quốc hỏi có thật EU coi Trung Quốc là đối thủ không, Tổng thống Pháp Macron đã nói thẳng “đúng thế” (You are a rival).

Theo một khảo sát của Pew Research (10/2020) mức độ bất tín nhiệm (distrust) đối với Tập Cận Bình lên rất cao ở hầu hết các nước được khảo sát. Tâm trạng này ở Châu Âu ngày càng lan rộng. Đại sứ EU ở Bắc Kinh nói năm ngoái sự ủng hộ Trung Quốc tại Châu Âu và các nơi khác đã giảm sút mạnh. Theo Wess Mitchell (cựu trợ lý ngoại trưởng Mỹ về Châu Âu) “đồng minh tốt nhất của chúng ta để coi Trung Quốc là đối thủ, chính là thái độ của họ”. Trong khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói họ coi Châu Âu là “đối tác chiến lược” (strategic partner) chứ không phải “đối thủ” (rival), thì Bắc Kinh luôn đe dọa trừng phạt các nước mỗi khi có bất đồng. Đại sứ Trung Quốc tại Thụy Điển có lần nói với báo chí: “đối với kẻ thù, chúng tôi có súng săn” (for our enemies, we got shotguns).

Tuy Úc phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế, nhưng là nước đầu tiên cấm công nghệ Huawei và kêu gọi thế giới điều tra Trung Quốc xử lý coronavirus. Tuy Ấn Độ là một trụ cột của phong trào không liên kết trên thế giới nhưng đang mở rộng hợp tác quân sự với Mỹ và đồng minh trong khi có chiến sự với Trung Quốc tại biên giới hai nước. Trong khi Đức vẫn thận trọng thì cuộc tranh luận về sự phụ thuộc của Châu Âu vào Trung Quốc ngày càng bức xúc. Đức có hơn 5.200 công ty kinh doanh tại Trung Quốc, nhưng đang chịu nhiều sức ép phải lên tiếng vì lợi ích của Châu Âu.

Nhiều người ảo tưởng Tập Cận Bình sẽ đưa Trung Quốc đi theo trật tự thế giới của Mỹ, nhưng đó là “một trong những tính toán chiến lược sai lầm lớn nhất thời hậu chiến tranh lạnh”. Tám năm qua, Tập theo đuổi tầm nhìn về tương lai Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bộc lộ tham vọng kiểm soát và thao túng chính trị làm ngạc nhiên giới tinh hoa Mỹ và Trung Quốc. Nay nhìn lại, người ta ngạc nhiên là Tập tìm cách khôi phục Mao để củng cố chính danh cho mình và cho Đảng, trước những cảnh báo về sự bất ổn trong 5 năm tới và lên án Tập đã biến Đảng thành “hình nhân chính trị”.

Triển vọng quan hệ Mỹ-Trung và khu vực

Cách đây mấy thập niên, Samuel Huntington đã viết trên Foreign Affairs rằng Mỹ có khả năng tự chỉnh sửa, và những người thuộc “trường phái suy thoái” (declinists) đóng vai trò không thể thiếu “trong việc ngăn chặn những gì mà họ dự báo”. Đối với Mỹ, suy thoái là do chính trị nên đó là một sự lựa chọn, vì vậy suy thoái là sự lựa chọn chứ không phải điều hiển nhiên. Suy thoái diễn ra trong hệ thống chính trị phân cực, với tổng thống Dân chủ sắp nhậm chức, trước một Thượng viện vẫn do Cộng hòa nắm đa số. Nhà báo Noah Smith (Bloomberg) cho rằng nếu đối nội Mỹ không thay đổi thì chỉ vài thập niên nữa “Mỹ sẽ giống như một nước đang phát triển”.

Theo Kurt Campbell (cựu trợ lý ngoại trưởng), chính sách Trung Quốc là tâm điểm của sự lựa chọn này. Trung Quốc càng quyết đoán thì Quốc hội và người dân càng đoàn kết xung quanh lo ngại về ý đồ lâu dài của Bắc Kinh và tác động của chủ nghĩa trọng thương (mercantilism). Đề ra chương trình nước Mỹ không dựa trên đối nội mà như là một phần của nỗ lực duy trì khả năng cạnh tranh của Mỹ đối với Trung Quốc có thể được lưỡng đảng ủng hộ.

Gần đây, giáo sư David Shambaugh (Đại học George Washington) đã xuất bản cuốn Where Great Powers Meet: America and China in Southeast Asia (Oxford University Press, 2020). Trong cuốn sách đó, Shambaugh đã nhấn mạnh vị trí sống còn của Biển Đông trong bàn cờ địa chiến lược Mỹ – Trung. Hàng năm, khoảng 50.000 tàu thuyền qua lại trên Biển Đông, chiếm 40% thương mại và 25% vận tải dầu khí trên thế giới. Đặc biệt, Trung Quốc đã thay đổi thực địa, bồi đắp các đảo họ chiếm đóng trái phép thành “chuyện đã rồi”, và quân sự hóa các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa thành các căn cứ quân sự.

Các nước ASEAN tự hào về phong cách riêng của mình (ASEAN Way), như nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào nội bộ của nhau, và hợp tác tự nguyện. Tuy điều đó giúp các nước ASEAN gắn kết nhưng cũng bộc lộ các điểm yếu cơ bản, làm vô hiệu hóa khả năng của ASEAN đối phó với các vấn đề nhạy cảm như tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và ngăn chặn Trung Quốc quân sự hóa các đảo họ chiếm đóng. Giới quan sát cho rằng các diễn đàn ASEAN chỉ là nơi “tranh cãi” (talk shops) mà không thực sự hiệu quả về mặt hành động.

Một số nước ASEAN bị mắc kẹt trong thế đối đầu Mỹ-Trung đã ngả theo Bắc Kinh (như Campuchia và Philippines). Tuy xu hướng này đáng lo ngại, nhưng không nên quá lo lắng và phóng đại, vì xu hướng đó có thể đảo chiều trong thời gian tới. Một là Bắc Kinh có thể đi quá xa và ra tay quá đà, như đòi hỏi quá nhiều và bóc lột quá đáng. Hai là các nhà ngoại giao Trung Quốc quen với lối tuyên truyền một chiều, dễ vô cảm với tâm trạng của khu vực. Ba là nhiều nước Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm lý “hậu thực dân”, nên rất dễ phản ứng trước thái độ ngạo mạn và quan hệ bất đối xứng.

Tổng giá trị thương mại giữa Mỹ và ASEAN khoảng 350 tỷ đô la Mỹ (năm 2018) trong khi tổng giá trị thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN là 587,8 tỷ đô la Mỹ (năm 2018). Tuy con số của Trung Quốc với ASEAN lớn hơn con số của Mỹ với ASEAN nhưng không quá xa, và ASEAN vẫn là bạn hàng lớn thứ tư của Mỹ. Trong khi đó, tổng giá trị đầu tư trực tiếp của Mỹ tại các nước ASEAN là $329 tỷ đô la Mỹ (bằng cả Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cộng lại).

Khi Trung Quốc bành trướng ở khu vực thì giới quan sát cho rằng quyền lực Mỹ bị suy yếu. Đó là một ngộ nhận vì ảnh hưởng kinh tế, văn hóa, an ninh của Mỹ ở khu vực còn rất lớn, xét trên nhiều mặt lớn hơn Trung Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc được đánh giá quá cao, còn Mỹ bị đánh giá quá thấp. Tuy Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ nhưng chưa thống trị được khu vực.

Chính quyền Biden sẽ hàn gắn quan hệ với các nước đồng minh, nên vai trò của Nhật, Ấn Độ, Úc, và Hàn Quốc tại khu vực càng quan trọng. Đặc biệt, vai trò của Nhật ngày càng quan trọng đối với kinh tế và an ninh khu vực. Trong khi chính phủ Narendra Modi triển khai chính sách “Hành động Hướng Đông” (Act East) của Ấn Độ, thì Tổng thống Moon Jae-in thúc đẩy chính sách “Hướng Nam” (Southward Policy) của Hàn Quốc. Vì quan hệ Úc-Trung căng thẳng, nên Thủ tướng Morrison cũng đang điều chỉnh chính sách của Úc đối với khu vực.

Tuy vai trò của Mỹ với các nước đồng minh là then chốt, nhưng chính thái độ của Trung Quốc cũng là một lợi thế so sánh cho Mỹ ở khu vực. Bắc Kinh càng hung hăng bắt nạt các nước khu vực bằng “ngoại giao chiến lang”, tuyên truyền thô thiển, vô cảm với tâm trạng của khu vực, và không biết lắng nghe ý kiến phê phán, thì càng góp phần làm suy yếu quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc. Vì vậy, nếu chính quyền Biden biết lựa chọn ưu tiên, làm việc với khu vực một cách nhất quán như họ mong đợi, thì Mỹ có thể đối phó được với Trung Quốc.

Theo Kurt Campbell và Jake Sullivan (hai cố vấn đối ngoại chủ chốt của Joe Biden), mục tiêu của Washington là kiến tạo điều kiện thuận lợi để cùng tồn tại với Bắc Kinh trên bốn lĩnh vực cạnh tranh chính là quân sự, kinh tế, chính trị, và quản trị toàn cầu. Sai lầm cơ bản trước đây khi Mỹ hợp tác với Trung Quốc là cho rằng nó sẽ làm thay đổi cơ bản hệ thống chính trị, kinh tế, và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Nay Mỹ có thể mắc lại sai lầm tương tự khi cho rằng cạnh tranh có thể làm Trung Quốc thay đổi, phải đầu hàng hay sụp đổ, điều mà hợp tác trước đây đã thất bại.

Trung Quốc ngày nay là một đối thủ khác hẳn với Liên Xô trước đây: đáng gờm hơn về kinh tế; tinh tế hơn về ngoại giao; linh hoạt hơn về hệ tư tưởng. Trung Quốc đã hội nhập sâu hơn với thế giới và nền kinh tế Mỹ. Chiến lược ngăn chặn của Mỹ được dựa trên dự báo là Liên Xô sẽ đến lúc sụp đổ vì nó mang theo “hạt giống suy tàn” như George Kennan đã tự tin vạch ra chiến lược ngăn chặn. Nhưng ngày nay không thể dự báo Trung Quốc như vậy vì thiếu cơ sở cho một chính sách ngăn chặn mới trên tiền đề là Trung Quốc cuối cùng sẽ sụp đổ. Mặc dù Trung Quốc đứng trước nhiều thách thức về dân số, kinh tế, và môi trường, nhưng đảng cộng sản đã chứng tỏ năng lực đáng kể có thể thích nghi với hoàn cảnh khó khăn.

Mỹ và Trung Quốc đối đầu tại Indo-Pacific, nơi có bốn điểm nóng là Biển Đông, Biển Hoa Đông, eo biển Đài Loan, và bán đảo Triều Tiên. Washington lo Trung Quốc đẩy Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương còn Bắc Kinh lo Mỹ dồn Trung Quốc vào bẫy. Đài Loan không chỉ là một điểm nóng, mà còn là một bài học thành công lớn trong lịch sử bang giao Mỹ – Trung, trong khi Biển Đông là tâm điểm của đối đầu Mỹ-Trung. Để hai siêu cường có thể chung sống hòa bình, Washington cần tăng cường răn đe và quản trị khủng hoảng, không để Bắc Kinh tự do đe dọa sử dụng vũ lực để tranh chấp chủ quyền và làm “chuyện đã rồi”. Elbridge Colby lập luận “có thể răn đe mà không cần sức mạnh để đương đầu với đối thủ đáng gờm”.

Để đảm bảo răn đe tại Indo-Pacific, Mỹ cần giảm đầu tư vào các hệ thống vũ khí đắt tiền nhưng dễ tồn thương như tàu sân bay, mà nên tăng đầu tư vào các hệ thống vũ khí bất đối xứng, được tạo ra để hạn chế sự phiêu lưu của Trung Quốc mà không quá tốn kém. Washington cần đa dạng hóa sự có mặt của quân đội Mỹ ở Đông Nam Á và vùng Biển Ấn Độ Dương mà không cần phải lập căn cứ quân sự cố định. Vì vậy, Mỹ cần xây dựng một mặt trận thống nhất gồm các đồng minh và đối tác cùng chí hướng.

Triển vọng quan hệ Mỹ-Việt và Biển Đông

Theo Lê Hồng Hiệp (ISEAS – Yusof Ishak Institute), Mỹ và Việt Nam có lợi ích chiến lược song trùng tại Biển Đông. Trung Quốc càng hiếu chiến thì càng thúc đẩy hợp tác chiến lược Mỹ-Việt, giúp nâng cao năng lực hàng hải cho Việt Nam, phù hợp với cơ chế an ninh khu vực và theo tầm nhìn Indo-Pacific, trong khuôn khổ “Bộ tứ mở rộng”. Dù Chính quyền Biden có bỏ qua khoản thặng dư thương mại ($58 tỷ) hay không thì Biden, với quan điểm thân thiện với Việt Nam, chắc sẽ có cách đề cập hợp lý hơn.

Theo Carl Thayer, lợi ích cơ bản của Mỹ sẽ không thay đổi sau khi Joe Biden tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Mỹ thứ 46 (20/1/2021). Các thỏa thuận Hà Nội ký với Robert O’Brien là nhằm tăng cường hợp tác hàng hải và mua thiết bị quân sự để đối phó với Trung Quốc đang gây sức ép tại Biển Đông. Quan điểm chính thống của Mỹ thời Biden là coi trọng chủ nghĩa đa phương, như một điểm khác biệt cơ bản so với Trump vốn coi nhẹ đồng minh. Biden sẽ tăng cường ủng hộ Bộ Tứ (Quad) và ý tưởng “Bộ Tứ Mở rộng” (Quad Plus), để phối hợp tập trận không chỉ với Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, mà còn với các nước khác như Việt Nam.

Derek Grossman (RAND) tin rằng Việt Nam có thể đóng góp tốt cho “Bộ tứ Mở rộng” để đối phó với Trung Quốc. Nếu Bộ Tứ mở rộng có một nước khu vực như Việt Nam tham gia sẽ làm suy yếu lập luận của Bắc Kinh cho rằng “Bộ Tứ” chỉ là một nhóm các nước bên ngoài khu vực muốn “ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc”. Theo Kent Calder (giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á tại Đại học Johns Hopskins), chính quyền Joe Biden sẽ thắt chặt quan hệ với Việt Nam. Sự ủng hộ rộng rãi của các nước Bộ Tứ, trong đó có các nước trong Indo-Pacific, sẽ mở rộng thêm các thỏa thuận thương mại đa phương.

Gần đây, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Đặc biệt ở Thái Bình Dương (SOCPAC) đề cập khả năng hợp tác giữa lực lượng đặc biệt của Mỹ với đặc công của Việt Nam. Bộ Chỉ huy Tiếp vận Lục quân Mỹ (USAMC) cũng muốn xây dựng một hệ thống kho tiếp liệu và dự trữ quân nhu tại Việt Nam để Mỹ có thể triển khai nhanh các hoạt động nhân đạo nhằm giúp Việt Nam đối phó với thiên tai. Nhưng hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt còn hạn chế chừng nào Viêt Nam vẫn duy trì nguyên tắc “ba không”. Trong một báo cáo gần đây của RAND về đối đầu Mỹ-Trung ở khu vực Indo-Pacific, Derek Grossman có năm nhận xét:

Một là, tuy Mỹ duy trì ưu thế về an ninh, nhưng lại đứng sau Trung Quốc về các chỉ số kinh tế và xấp xỉ nhau về chính trị và ngoại giao, vì vậy không thuận cho Việt Nam “chọn Mỹ”. Thực ra, Viêt Nam chọn cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Do đó, Washington nên để cho quan hệ với Việt Nam diễn ra một cách tự nhiên (organically), tức là để cho lãnh đạo Việt Nam tự đi đến kết luận về thái độ của Trung Quốc và sự cần thiết phải chơi với Mỹ. Nếu thúc Hà Nội phải chọn bên khi đối đầu Mỹ-Trung căng lên có thể phản tác dụng.

Hai là, giống nhiều nước khác ở khu vực, Việt Nam nghi ngờ chiến lược Indo-Pacific của Mỹ có bền vững với thời gian và có thể răn đe hiệu quả các hành động quyết đoán của Trung Quốc tại Biển Đông hay không. Mỹ nên cân nhắc làm sâu sắc thêm và thường xuyên trao đổi với các đối tác Việt Nam, ưu tiên về chất lượng hơn là số lượng, để tránh những thách thức không đồng bộ. Làm như vậy sẽ giúp thuyết phục Hà Nội rằng Washington là một cường quốc Thái Bình Dương trong tương lai có thể giúp ích Việt Nam đối phó với Trung Quốc.

Ba là, ngoài vấn đề Biển Đông, Việt Nam muốn Mỹ tập trung xem tác động của chương trình Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc ở các nước láng giềng Đông Dương tác động trực tiếp đến Việt Nam thế nào. Việt Nam lo ngại rằng Campuchia và Lào đang gắn chặt với Trung Quốc, và trên thực tế làm xói mòn quan hệ đặc biệt của Việt Nam với các nước này. Mỹ nên cam kết cạnh tranh với BRI để giúp Việt Nam tránh bị bao vây bởi các nước thân Trung Quốc. Ngoài ra, Mỹ cần cam kết sâu hơn để chống tác động tiêu cực của BRI tới môi trường các nước này, nhất là các đập thủy điện của Trung Quốc trên sông Mekong.

Bốn là, Mỹ nên tiếp tục hợp tác với các đồng minh và đối tác để tìm kiếm sự bổ sung cho các mục tiếu cơ bản nhằm tránh chồng chéo các nỗ lực ở Việt Nam. Ví dụ, Nhật, Ấn Độ, và Hàn Quốc ủng hộ các mục tiêu an ninh hàng hải của Việt Nam. Úc làm rất tốt và Canberra sẵn sàng giúp lực lượng gìn giữ hòa bình (PKO) huấn luyện quân sự chuyên nghiệp (PME) và thậm chí lực lượng đặc biệt của Việt Nam. Nhật cũng tích cực trong công tác cứu hộ (SAR) và tăng cường luật biển trong và ngoài Indo-Pacific. Úc, New Zealand, Anh có thể hỗ trợ đào tạo tiếng Anh, công tác gìn giữ hòa hòa bình, và huấn luyện quân sự chuyên nghiệp.

Năm là, trong các chuyến thăm cấp cao của Bộ Quốc phòng, không quân Mỹ (USAF) đề xuất hợp tác binh chủng trở thành thường xuyên hơn để làm giảm thiểu khả năng gián đoạn trong tương lai. USAF nên tìm kiếm cơ hội để xây dựng năng lực tổ chức của VAD-AF, nhất là chức năng hỗ trợ, bao gồm bảo dưỡng, duy tu và an toàn, có nhiều khả năng đem lại kết quả lâu bền. Vì tính chất nhạy cảm của VAD-AF tại căn cứ quân sự do “chính sách quốc phòng ba không”, nên USAF có thể đề xuất hợp tác tại các địa điểm dân sự.

Tuy Biden không chỉ trích Trung Quốc nặng nề như Mike Pompeo nhưng sẽ giữ nguyên thuế quan và trừng phạt, coi Trung Quốc như đối thủ chính của Mỹ. Biden sẽ ủng hộ Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, ASEAN, và Bộ tứ (Quad), hàn gắn quan hệ kinh tế song phương với khu vực. Trong một hay hai năm đầu, Biden sẽ khó tham gia CPTPP và RCEP vì phải được Thượng viện chấp thuận, và trong nhiệm kỳ đầu rất ít khả năng Mỹ thông qua Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Nhưng Biden chắc có chính sách khác hẳn Trump về WHO và WTO, sẵn sàng hợp tác với Trung Quốc về các vấn đề toàn cầu như COVID-19, biến đổi khí hậu, phục hồi tăng tưởng kinh tế thế giới, và phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.

Dưới thời Biden, Mỹ không đối đầu với Trung Quốc như thời Trump, nên Việt Nam không bị Mỹ ép phải chọn bên. Tuy quan hệ Mỹ-Trung còn căng thẳng, nhưng hai bên sẽ tìm cách hợp tác, tạo cơ hội hơn là thách thức. Việt Nam có thể hợp tác với cả Trung Quốc và Mỹ, nhất là về kinh tế và thương mại. Trung Quốc không muốn Việt Nam đi theo quỹ đạo của Mỹ nên Việt Nam có cơ hội tranh thủ kịch bản này. Chính quyền Biden sẽ coi Việt Nam như “đối tác chiến lược” và ủng hộ vai trò Việt Nam lãnh đạo ASEAN. Khả năng quan hệ thân thiện giữa Mỹ và Trung Quốc (G2) rất khó hình thành để Mỹ phải hy sinh Việt Nam hay khu vực.

Trong bốn năm tới, quan hệ Mỹ-Trung chắc sẽ “không quá ấm” cũng “không quá lạnh”. Biden sẽ không quá cứng rắn với Trung Quốc như Mike Pence và Mike Pompeo, nên có thể hợp tác về các vấn đề toàn cầu để chống dịch (WHO), phục hồi kinh tế toàn cầu (WTO), chống biến đổi khí hậu, và phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên. Chính quyền Biden sẽ tiếp tục chống Trung Quốc đe dọa và bắt nạt ở Biển Đông trong khi tăng cường đối tác chiến lược với ASEAN về các vấn đề khu vực. Vì vậy, ASEAN sẽ có vai trò quan trọng để gìn giữ hòa bình, ổn định, tăng cường hợp tác khu vực trước những khó khăn mới.

Chính quyền Biden cần ít nhất nửa năm để ổn định, phụ thuộc nhiều vào kết quả bầu cử bổ sung hai ghế Thượng viện ở tiểu bang Georgia. Nếu đảng Cộng hòa nắm đa số Thượng viện, họ có thể phủ quyết đề cử nhân sự như Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, Giám đốc Tình báo Quốc gia. Ưu tiên số một của Biden là kiểm soát đại dịch và phục hồi kinh tế. Theo luật Mỹ, Chính quyền Biden phải trình Quốc hội Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) trong vòng 150 ngày. Nếu được phê chuẩn thì Bộ Quốc phòng đề xuất Chiến lược Quốc phòng (NDS) và chiến lược Indo-Pacific. Trước khi có NDS, chính sách đối ngoại của Mỹ thường dựa trên cơ sở lâm thời (ad hoc basis). Dự kiến lưỡng đảng sẽ đồng thuận một chính sách cứng rắn với Trung Quốc liên quan đến thặng dư thương mại và can thiệp vào nội bộ Mỹ.

Theo Carl Thayer, nếu đại dịch COVID-19 được kiểm soát tốt năm 2021 thì ASEAN và Trung Quốc có thể tiếp tục đàm phán về DOC và COC ở Biển Đông. Tuy quan hệ Việt – Trung về kinh tế và thương mại tương đối ổn, nhưng vẫn thường xuyên xảy ra căng thẳng trên Biển Đông. Nếu Việt Nam tiếp tục thăm dò hay khai thác dầu khí tại mỏ Lan Đỏ (lô 06-01) gần Bãi Tư Chính thì Trung Quốc chắc chắn sẽ gây căng thẳng, có thể lặp lại tình huống đối đầu như năm 2019. Năm 2020, các tàu tuần duyên Trung Quốc vẫn tiếp tục quấy rối tại khu vực này, để cảnh báo Việt Nam không được khai thác.

Hiện nay PetroVietnam đang hợp tác với Idemitsu và Teikoku (của Nhật) để khai thác hai mỏ Đại Nguyệt và Sao Vàng (lô 05-01). Các công ty Nhật mạnh hơn Repsol và Rosneft vì (1) Họ có thể thuê tàu khảo sát và tàu khoan của Nhật; (2) Trung Quốc và Nhật đã có quan hệ làm ăn tốt trong mấy năm qua nên chắc Trung Quốc không muốn làm mất lòng Nhật; (3) Chính quyền Biden sẽ mau chóng phối hợp chính sách với Nhật ở khu vực; (4) Nhật có thể điều tàu tuần duyên hay hải quân phối hợp với tàu hải cảnh của Việt Nam để bảo vệ lô 05-01; (5) Trung Quốc phải tính đến yếu tố Nhật Bản có hiệp ước an ninh với Mỹ.

Trong khi đó, Việt Nam là khâu yếu nhất, như vụ Respol và Rosneft đã chứng minh khi lãnh đạo Việt Nam phải xuống thang trước sức ép của Trung Quốc, phải bỏ hợp tác với Repsol (Tây Ban Nha). Hiện nay các công ty dầu khí của Nhật đã bỏ vốn và kế hoạch khai thác của họ đã được chính phủ Việt Nam phê duyệt. Trong khi ExxonMobil (của Mỹ) có thể rút khỏi dự án Cá Voi Xanh trước một số khó khăn mới, tập đoàn này muốn xây dựng nhà máy điện khí hóa lỏng có vốn đầu tư hơn 5 tỷ đô la Mỹ tại Hải Phòng.

Hợp tác Mỹ-Việt về năng lượng, bao gồm các dự án nhà máy điện chạy bằng khí hóa lỏng (LNG) nhập khẩu từ Mỹ là một di sản của chính quyền Trump mà chính quyền Biden chắc sẽ đẩy mạnh. Đây là lĩnh vực hợp tác đang được hai nước ưu tiên thúc đẩy vì “ý nghĩa chiến lược đúp”, vừa giúp giảm thiểu sức ép về thặng dư thương mại, vừa hỗ trợ Việt Nam về an ninh năng lượng và bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.

Rủi ro trong thương mại Mỹ – Việt

Gần đây, Chính quyền Trump đã “gắn mác” Việt Nam “thao túng tiền tệ” (16/12) sau khi Bộ Tài chính Mỹ công bố kết luận Việt Nam (và Thuỵ Sỹ) đã vượt cả ba ngưỡng về thao túng tiền tệ bao gồm (1) các tiêu chí về can thiệp vào thị trường ngoại hối, (2) thặng dư tài khoản vãng lai và (3) thặng dư thương mại. Trước khi rời nhiệm sở (20/1), Trump dọa đánh thuế hàng may mặc và giày dép, đồ gỗ, điện tử và gia dụng của Việt Nam. Mỹ nhập khoảng $65 tỷ hàng hóa từ Việt Nam (trong 10 tháng đầu năm 2020) so với $ 66,6 tỷ (cả năm 2019).

Theo chỉ đạo của Trump, Cơ quan Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) đã tiến hành điều tra (từ tháng 10/2020) việc định giá tiền tệ của Việt Nam (theo điều khoản 301) và sẽ điều trần công khai (ngày 29/12) trước khi công bố kết quả (ngày 7/1/2021). Động thái này của Trump không chỉ làm khó cho Chính quyền Biden với một di sản bất lợi, mà còn làm hại cho quan hệ Mỹ-Việt vì Việt Nam là đối tác quan trọng nhất của Mỹ trong ASEAN, theo tầm nhìn Indo-Pacific và trước diễn biến ở Biển Đông.

Nhưng Mỹ có trừng phạt Việt Nam hay không còn phụ thuộc vào chính quyền mới, khi Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen sẽ xem xét lại (tháng 4/2021). Tuy quan điểm của Yellen đối với các nước dùng đòn bẩy vĩ mô trong chính sách tiền tệ và tài khóa khá linh hoạt, nhưng Blinken nói (tháng 9/2020) sẽ “kiên quyết thực hiện luật lệ thương mại của Mỹ mỗi khi gian lận nước ngoài đe dọa việc làm của Mỹ”. Dù quyết định của Mỹ là “tượng trưng”, nó có thể làm lãnh đạo Hà Nội phải suy nghĩ lại xem có thể tin vào Mỹ như một đối tác chiến lược hay không và tác động đến sắp xếp nhân sự và quyết sách của Hà Nội cho 5 năm tới.

Giám đốc Amcham tại Viet Nam Adam Sitkoff nói “thao túng tiền tệ không phải là một vấn đề đối với các thành viên của chúng tôi, và bất cứ hành động tiềm ẩn nào trong những ngày cuối của chính quyền này làm tổn hại cho kinh tế Việt Nam qua trừng phạt bằng thuế quan sẽ làm tổn hại cho quan hệ đối tác gần gũi mà hai nước đã đạt được”.

Theo Nikkei, thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ đã tăng từ 32 tỷ đô la (2016) lên 38,3 tỷ (2017), 39,4 tỷ (2018), 55,7 tỷ (2019) và 58 tỷ đô la (2020), còn lớn hơn cả Nhật (57 tỷ, 2020). Việt Nam xếp thứ tư trong số các đối tác thương mại của Mỹ (2019), nay đã vượt qua Nhật để xếp thứ ba, chỉ sau Trung Quốc và Mexico (2020) về thặng dư thương mại song phương. Đáng chú ý là tuy Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng Việt Nam chỉ chiếm 2,7% nhập khẩu của Mỹ. Chưa biết Việt Nam có thoát các biện pháp “trừng phạt” của Mỹ hay không nhưng cuộc điện đàm giữa Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Donald Trump (ngày 22/12) có thể coi là một nỗ lực của Việt Nam để thoát khỏi viễn cảnh này.

Thực ra trong mấy năm qua (2018 và 2019), chính quyền Trump đã gây sức ép với Việt Nam, và đánh thuế nhập khẩu 456 % lên thép của Việt Nam, và gọi Việt Nam là “kẻ lạm dụng tồi tệ nhất” (single worst abuser of everybody). Do hệ quả của chiến tranh thương mại, nhiều công ty nước ngoài đã rời Trung Quốc để chuyển sang Việt Nam, nhưng “Việt Nam đã lợi dụng chúng ta còn tồi tệ hơn cả Trung Quốc”.

Để triển khai chiến lược “Trung Quốc cộng một”, nhiều công ty nước ngoài đã rời Trung Quốc. Việt Nam đã thu hút được hơn 38 tỷ đô la đầu tư FDI năm 2019, tăng 7,2% so với năm 2018. Samsung Electronics đã chuyển dây chuyền sản xuất điện thoại thông minh sang Việt Nam và xuất khẩu của họ chiếm 1/4 giá trị xuất khẩu của Việt Nam (năm 2019). Ngoài Samsung, còn nhiều công ty khác có nhà máy ở Việt Nam như Canon, Toyota, Honda, Panasonic, LG Electronics, Hyundai, TCL Technology, Foxconn Technology, v.v…

Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và đại dịch COVID-19 đã gây khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu. Chủ chương tách Mỹ khỏi Trung Quốc về kinh tế và công nghệ là một cách đối phó bị động của Chính quyền Trump làm nhiều doanh nghiệp phải rời Trung Quốc và chuyển đến các nước Châu Á khác như Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ, v.v… Tuy Việt Nam được hưởng lợi từ dòng chuyển dịch này nhưng dễ sẽ tiếp tục sa vào “bẫy gia công” nếu không cơ cấu lại doanh nghiệp và đổi mới thể chế để tăng cường nội lực.

Theo các chuyên gia, thay vì trừng phạt Việt Nam “thao túng tiền tệ”, Mỹ có thể ép Việt Nam nhập thêm hàng hóa của Mỹ và ngăn chặn hàng hóa Trung Quốc tuồn qua Việt Nam để xuất sang Mỹ.

Lời kết

Theo thông báo chính thức, Đại hội Đảng lần thứ 13 sẽ họp từ ngày 25/1 đến 2/2/2021 để chuyển giao lãnh đạo và xác định đường lối cho 5 năm tới. Năm 2020, Việt Nam đã đạt được thành tích ấn tượng trên ba mặt chính. Một là kiểm soát được đại dịch COVID-19 (đến nay chỉ có 1.454 người nhiễm bệnh và 35 người chết). Hai là tiếp tục chống tham nhũng và “tự diễn biến”; Ba là kinh tế vẫn tăng trưởng dương (2,9%) trong khi đại dịch làm kinh tế toàn cầu suy thoái. Năm 2021 (dưới thời Biden) có hai vấn đề nổi cộm mà Việt Nam phải tháo gỡ là nhân quyền và vấn đề thao túng tiền tệ.

Năm 2020 Việt Nam làm chủ tịch ASEAN và tổ chức thành công các Hội nghị Cấp cao ASEAN 37, Hội nghị Cấp cao Đông Á 15 (trực tuyến), và sau đó tổ chức lễ ký trực tuyến RCEP (15/11/2020).

Nhưng các sự kiện quan trọng nói trên vẫn chưa đem lại đổi mới thể chế như dư luận mong đợi. Ngoài nguyên nhân nội tại, Viêt Nam vẫn mắc kẹt trong thế đối đầu Mỹ – Trung ở khu vực nên vẫn phải tiếp tục giữ thế cân bằng như tại “ngã ba đường” với trò chơi “hedging” (phòng bị nước đôi) với hai nước lớn. Tiếp theo chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, đại dịch COVID-19 đã đẩy Việt Nam và thế giới vào nguy cơ khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự kiện bầu cử Tổng thống Mỹ đầy kịch tính cuối năm 2020 đã trùm lên nước Mỹ và thế giới đám mây đen khủng hoảng chính trị và khủng hoảng truyền thông.

Còn quá sớm để nhận định về chính sách đối ngoại của chính quyền mới khi chính sách đó còn đang hình thành và khi Joe Biden chưa chính thức tuyên thệ nhậm chức. Nhưng sẽ quá muộn nếu để đến lúc đó mới bắt đầu tìm hiểu và trao đổi về chính sách đối ngoại mới, vì tầm quan trọng của nó đối với Việt Nam và ASEAN cũng như toàn cầu. Tuy nhiên, do chính sách mới còn đang hình thành, chúng ta cần tiếp tục cập nhật thông tin và đổi mới tư duy cùng hệ quy chiếu để phân tích các sự kiện.

Thích hay không, nước Mỹ và thế giới phải chuẩn bị tinh thần cho bốn năm hay tám năm của Chính quyền Joe Biden. Trong khi chính quyền mới ưu tiên tập trung giải quyết các vấn đề nội bộ cấp bách như đại dịch COVID-19, phục hồi kinh tế và hàn gắn đất nước, chính sách đối ngoại của chính quyền mới liên quan đến Trung Quốc và khu vực Indo-Pacific nhiều khả năng sẽ không thay đổi mấy về thực chất, ngoài cố gắng hàn gắn các quan hệ đồng minh và cam kết quốc tế của Mỹ.

Theo NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ

Tags: , , ,