Tổng quan về Chiến dịch Tây Nguyên 4/3/1975 – 3/4/1975

Chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên đã mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Đòn mở đầu chiến lược

Tây Nguyên lúc đó có diện tích khoảng 60.000 km2, gồm các tỉnh: Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn, Đắk Lắk và một phần tỉnh Quảng Đức; được người Pháp coi là “mái nhà Đông Dương”. Ai làm chủ được địa bàn này sẽ làm chủ được Đông Dương.

Thay chân thực dân Pháp, đế quốc Mỹ càng chú trọng hơn vị trí chiến lược quân sự này. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tăng cường nhiều biện pháp để kìm kẹp đồng bào các dân tộc, ngăn chặn phong trào cách mạng ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, với tinh thần quật khởi, quân và dân Tây Nguyên đã liên tục đấu tranh, từng bước đánh bại âm mưu, hành động xâm lược của địch.

Bước vào xuân – hè năm 1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên (mang mật danh A 275), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam.

Bộ Tư lệnh chiến dịch do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm năm sư đoàn (10, 320, 316, 3, 968) và bốn trung đoàn bộ binh, một trung đoàn và hai tiểu đoàn đặc công, hai trung đoàn pháo binh, một trung đoàn tăng – thiết giáp, ba trung đoàn pháo phòng không.

Thực hiện nhiệm vụ nghi binh, tạo thế chiến dịch, ngay từ đầu tháng 3/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên sử dụng Sư đoàn 968 hoạt động nghi binh ở khu vực Bắc Tây Nguyên khiến Sư đoàn 23 địch phải chuyển một bộ phận lực lượng từ Buôn Ma Thuột lên Kon Tum, Pleiku đối phó.

Ngày 4/3, bộ đội ta chính thức nổ súng mở Chiến dịch Tây Nguyên. Từ ngày 4 – 9/3, quân ta đánh cắt giao thông trên các đường số 19, 21, cô lập Tây Nguyên với vùng duyên hải miền Trung, chia cắt đường số 14 để cô lập hai khu vực Bắc Tây Nguyên với Nam Tây Nguyên; tiến công lần lượt đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn (ngày 8/3), Đức Lập (ngày 9/3), cô lập triệt để Buôn Ma Thuột.

Thừa thắng, trong 2 ngày 10 và 11/3, quân ta tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, đánh thắng trận then chốt thứ nhất của chiến dịch. Tiếp đó, từ ngày 14 – 18/3, ta đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 trong trận Nông Trại – Chư Cúc, thực hiện thắng lợi trận then chốt thứ hai.

Bị thất bại và trước sức uy hiếp mạnh mẽ của quân ta, từ ngày 15/3, quân địch rút khỏi Kon Tum, Pleiku theo đường số 7 hòng co cụm về vùng đồng bằng ven biển Khu 5. Không bỏ lỡ thời cơ, bộ đội ta kịp thời truy kích, tiêu diệt gần hết quân địch rút chạy trên đường số 7, với các trận Cheo Reo (từ ngày 17 đến 19/3), Củng Sơn (ngày 24/3), giành thắng lợi trong trận then chốt thứ ba…

Sau đó, quân ta phát triển chiến đấu xuống vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phối hợp với quân và dân địa phương lần lượt giải phóng các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, kết thúc chiến dịch vào ngày 3/4/1975.

Kết quả, ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 – Quân khu 2 quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu trên 28.000 tên địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, giải phóng năm tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức) và một số tỉnh ở duyên hải Nam Trung Bộ.

Bài học độc đáo về nghệ thuật quân sự

Chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên, đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột đã thể hiện sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng mà cụ thể là sự chỉ đạo của Bộ Tham mưu tối cao là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về tất cả các mặt, từ việc chọn chiến trường, thời điểm, chọn vị trí đột phá cho đến việc chớp thời cơ phát triển chiến dịch đến những thắng lợi tiếp theo to lớn hơn.

Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho ta, còn địch bị động, bị suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường. Chiến thắng Tây Nguyên đã mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Thắng lợi của chiến dịch đã để lại nhiều vấn đề về nghệ thuật quân sự, đặc biệt là nghệ thuật nghi binh lừa địch. Đây là một kinh nghiệm lịch sử vô cùng quý giá cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Bày mưu kế, lập thế trận và lựa chọn mục tiêu (hướng) là những phát triển nổi bật của nghệ thuật quân sự trong chiến dịch này. Ta chọn mục tiêu chủ yếu (Buôn Ma Thuột) vào đúng nơi hiểm nhưng yếu của địch. Để mục tiêu này càng “yếu” hơn, ta đã nghi binh điều địch lên hướng Bắc, đồng thời bí mật cơ động lực lượng lớn về hướng Nam, nhờ vậy ta đã tập trung ưu thế áp đảo ở nơi cần thiết, tạo yếu tố bất ngờ.

Ta cũng bố trí thế trận hiểm, chia cắt chiến lược và chiến dịch địch, khiến các cụm quân của chúng bị cô lập. Từ đó buộc địch phải chấp nhận các tình huống ta đã dự kiến (ví dụ: do thế trận của ta, địch chỉ còn một khả năng duy nhất là đổ bộ trực thăng xuống đường 21 sau khi mất Buôn Ma Thuột. Tại đây, ta đã bố trí sẵn sàng Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25. Có nghĩa là địch đã rơi vào đúng kế, đúng định của ta).

Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975 còn nổi bật ở nghệ thuật phát triển tiến công. Nắm thời cơ có địch rút chạy, ta đã kịp thời và kiên quyết truy kích tiêu diệt chúng, đưa địch đến thất bại chưa từng có, làm rung chuyển chiến lược của địch, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ vào bước ngoặt quyết định.

Theo TTXVN

Tags: , , ,