Mục tiêu của Trung Quốc trong tranh chấp Doklam

 Trung Quốc có 4 mục tiêu then chốt trong tranh chấp Doklam, hai mục tiêu nhắm thẳng vào Ấn Độ và hai mục đích với ảnh hưởng trực tiếp hơn tới Mỹ và các quốc gia khác trên toàn thế giới.

Bài viết của tác giả Jonah Blank, nhà khoa học chính trị cao cấp của Tập đoàn Nghiên cứu và Phát triển (RAND), đồng tác giả cuốn Arrow of the Blue-Skinned God: Retracting the Ramayana Through India. Bài viết được đăng trên Foreign Affairs.

Ở độ cao hơn 4km so với mực nước biển và với khí hậu lúc nào cũng khắc nghiệt, Cao nguyên Doklam là nơi rất khó để phòng thủ. Trong khi đó, việc tiến hành một cuộc tấn công vấp phải những thách thức lớn hơn gấp bội – và đó là trước khi mùa Đông ở Himalaya ập đến. Điều này giúp giải thích tại sao vừa qua Trung Quốc và Ấn Độ đã chấm dứt một cuộc đối đầu quân sự vốn đã và đang trở nên tồi tệ hơn kể từ tháng 6. Tuy nhiên, vượt ra ngoài sự khổ cực của việc chuẩn bị chiến đấu trên chiến trường khắc nghiệt như vậy, cả hai quốc gia đều có lý do riêng để xuống thang một trong những cuộc đối đầu nghiêm trọng nhất kể từ cuộc chiến duy nhất giữa hai nước vào năm 1962. Nguyên trạng trước đây về cơ bản đã được khôi phục, nhưng tranh chấp này đã làm dấy lên những câu hỏi quan trọng về cán cân quyền lực ở châu Á, chiến lược lớn của Trung Quốc và bài học mà Washington có thể rút ra từ sự kiện này.

Trung Quốc và Ấn Độ có chung đường biên giới dài hơn 4.000km, với gần như toàn bộ đường biên giới chung đó dựa trên các thỏa thuận và khảo sát từ thời thực dân, và phần lớn trong số đó vẫn bị tranh chấp. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền các phần lãnh thổ do Ấn Độ nắm giữ, phần lớn là ở các bang Arunachal Pradesh, Jammu và Kashmir, với những vùng nhỏ hơn được tuyên bố chủ quyền ở Uttarakhand và Himachal Pradesh. Ấn Độ tuyên bố chủ quyền với các vùng đất do Trung Quốc nắm giữ, đáng chú ý nhất là vùng đất có tên gọi Aksai Chin mà Trung Quốc đã cho xây một con đường qua đó vào những năm 1950 nối Tân Cương với Tây Tạng. Phản ánh bản chất bất ổn của chúng, các phần biên giới chia cắt các vùng lãnh thổ bị tranh chấp được đề cập đến như là Đường ranh giới kiểm soát thực tế (LAC). Có những vụ va chạm định kỳ dọc theo LAC, nhưng cả hai quốc gia đã lên kế hoạch cẩn thận nhằm tránh leo thang; kết quả là, đã không có thương vong nào bắt nguồn từ các tranh chấp đất đai trong nửa thế kỷ qua.

Vào ngày 8/6, một đơn vị có quy mô trung đội của lực lượng bảo vệ biên giới Trung Quốc đã di chuyển vào vùng lãnh thổ được cả Trung Quốc lẫn Bhutan, quốc gia phụ thuộc của Ấn Độ, tuyên bố chủ quyền. Họ đã phá hủy các boongke bằng đá mà Quân đội Hoàng gia Bhutan không thường xuyên sử dụng, và ngay sau đó một đội xây dựng đường của Trung Quốc đã tới cùng với máy xúc, xe ủi đất và một đoàn quân đội hộ tống lớn hơn. Vào ngày 16/6, binh lính Ấn Độ đã tới và ngăn cản nỗ lực xây dựng đường sá. Hai tháng tiếp theo đó chứng kiến các vụ xô xát định kỳ tại Doklam, cũng như một vụ ném đá (được ghi hình lại và đăng trên YouTube) bên bờ Hồ Pangong đang tranh chấp cách đó gần 1.300km. Ngày 28/8, cả hai quốc gia đều nhất trí với điều mà Ấn Độ gọi là “rút quân nhanh chóng”, và cả hai đều tuyên bố việc không có giải pháp này là một chiến thắng.

Những mối quan ngại an ninh của New Delhi

Động cơ của Ấn Độ trong xung đột này khá dễ để làm sáng tỏ. Là nước bảo trợ và người bảo lãnh trên thực tế của Bhutan, New Delhi có nghĩa vụ gần như chính thức là bảo vệ các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của quốc gia đó. Theo Hiệp ước hữu nghị năm 1949, Vua Druk Gyalpo của Bhutan đã cam kết “làm theo lời khuyên của Chính phủ Ấn Độ liên quan đến các mối quan hệ bên ngoài của nước này”. Hiệp ước được sửa đổi vào năm 2007 nhằm đưa cả hai chính phủ cam kết “hợp tác chặt chẽ với nhau về các vấn đề có liên quan đến lợi ích quốc gia của hai nước”.

Ẩn dưới ngôn ngữ ngoại giao, ý định vẫn được giữ nguyên: Bhutan sẽ để cho Ấn Độ kiểm soát chính sách đối ngoại của mình, và Ấn Độ sẽ bảo vệ Bhutan khỏi mối đe dọa bên ngoài.
Hơn nữa, sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại Doklam – đặc biệt là sự hiện diện cùng với khả năng về cơ sở hạ tầng vận tải hỗ trợ cho các cuộc tấn công bất ngờ sâu hơn – sẽ đe dọa tới dải đất rộng hơn 27km được biết đến là Hành lang Siliguri nối 7 bang ở Đông Bắc Ấn Độ với phần còn lại của nước này. Hành lang này thường được biết đến là “cổ gà” của Ấn Độ – và New Delhi không có ý định để cho Bắc Kinh giành được quyền kiểm soát nó. Hiệp ước năm 2007 với Bhutan đưa ra lưu ý một cách đáng lo ngại rằng “Chính phủ sẽ không cho phép sử dụng lãnh thổ của mình cho các hoạt động gây hại tới lợi ích và an ninh quốc gia của nước khác”. Thậm chí nếu Bhutan sẵn sàng để Trung Quốc kiểm soát Doklam, thì Ấn Độ có khả năng sẽ miễn cưỡng (và, theo hiệp ước, không cần thiết) đứng sang một bên.

Các động cơ của Trung Quốc thì khó hiểu hơn, đa dạng hơn và quan trọng hơn đối với Mỹ và cộng đồng quốc tế. Như vậy, chúng cần phải được xem xét kỹ lưỡng hơn.

Những mục tiêu của Bắc Kinh ở khu vực

Động thái ban đầu của Trung Quốc, ngay cả khi nó có vẻ là nước cờ đầu trong ván cờ địa chính trị, có khả năng không có chủ đích như vậy. Bắc Kinh đã và đang trong đợt ráo riết xây dựng cơ sở hạ tầng trên toàn quốc kể từ những năm 1990, và các khu vực biên giới nhạy cảm đã không bị bỏ sót khỏi chương trình này. Trong con mắt của Ấn Độ, việc xây dựng một quốc lộ được rải nhựa ở khu vực có tính chiến lược cao có vẻ giống như đặt nền tảng cho một cuộc xâm lược tiềm tàng; nhưng đối với Trung Quốc, điều đó có lẽ chẳng khác gì kiểu nâng cấp “từ sỏi đá đến nhựa đường” nào đó trên khắp đất nước này.

Trên thực tế, binh lính Trung Quốc và Ấn Độ thường xuyên lấn sang biên giới của nhau khoảng một vài trăm mét, phụ thuộc vào việc họ có thể chiếm được bao nhiêu đất trước khi các giới chức trách có thẩm quyền cao hơn can thiệp. Chẳng hạn, vào tháng 4/2013, một trung đội của Trung Quốc đã tiến gần 20km vào vùng lãnh thổ do Ấn Độ nắm giữ gần Daulat Beg Oldi ở Kashmir, nhưng khoảng 3 tuần sau đó họ đã rút lui, sau cuộc tranh cãi căng thẳng về ngoại giao. Một nhân tố khác cho thấy sự rủi ro chứ không phải là tính toán ở cấp cao chính là địa thế chiến thuật: Ấn Độ chiếm ưu thế, điều có nghĩa rằng nếu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tìm cách lấn qua Doklam tiến tới Hành lang Siliguri thì phần lớn họ sẽ buộc phải tấn công ngược lên ngọn đồi khoảng hơn 140km.

Bất chấp căn nguyên của nó, cuộc đối đầu trực tiếp chưa từng có tiền lệ này – lần đầu tiên ở quy mô này trong 30 năm – kéo dài hơn dự tính, từ vài ngày sang vài tuần rồi tới vài tháng. Sau khoảng tuần đầu tiên, nó từ một sự khởi xướng trên thực địa sang một lựa chọn chính sách được thực hiện ở cấp cao nhất của Chính phủ Trung Quốc. Quả thực, Bắc Kinh đã khơi dậy tinh thần dân tộc chủ nghĩa trong dân chúng Trung Quốc bằng cách cho đăng những câu chuyện mang tính kích động (và trong một số trường hợp mang tính phân biệt chủng tộc cao) trên báo chí do nhà nước kiểm soát và phương tiện truyền thông xã hội. Có thể lập luận rằng Chính phủ Trung Quốc có 4 mục tiêu then chốt trong tranh chấp này, hai mục tiêu nhắm thẳng vào Ấn Độ và hai mục đích với ảnh hưởng trực tiếp hơn tới Mỹ và các quốc gia khác trên toàn thế giới.

Mục tiêu đầu tiên và hoàn toàn mang tính khu vực của Bắc Kinh là để cho Ấn Độ không có suy nghĩ rằng nước này ngang hàng với Trung Quốc. Cuộc chiến năm 1962 – trong đó Trung Quốc đã xâm lược Ấn Độ mà không gặp phải khó khăn lớn nào và đơn phương rút lui 1 tháng sau đó, trong khi giữ lại những phần lãnh thổ duy nhất nước này muốn giữ – đã làm tiêu tan hoàn toàn bất cứ ảo tưởng nào rằng hai quốc gia khổng lồ tại châu Á là bạn bè hay có cùng vị thế. Trong những thập kỷ tiếp theo, các nhà lãnh đạo của Ấn Độ nhìn chung đều thận trọng trước việc làm Bắc Kinh phật ý. Trong suốt những năm tháng Mao Trạch Đông nắm quyền và sau đó, khoảng cách về quân sự và kinh tế (đặc biệt từ những năm 1990 trở đi) giữa 2 quốc gia dường như giãn rộng hơn. Tuy nhiên, trong thế kỷ mới, sự tự tin của Ấn Độ đã đều đặn tăng lên: lãnh đạo của cả 2 đảng phái chính trị lớn ngày càng miêu tả Pakistan là đối thủ của đất nước trong quá khứ, và Trung Quốc là đối thủ trong tương lai. Dưới thời Thủ tướng Narendra Modi, thái độ này đã được đi kèm với hành động. Modi đã tăng cường hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự và lưỡng dụng của Ấn Độ dọc theo LAC, và gia tăng hợp tác an ninh với các đối tác Thái Bình Dương của nước này, trong đó có Úc, Nhật Bản và Việt Nam.

Mong muốn ngày càng gia tăng này đối với hợp tác an ninh mở rộng sang phía bên kia đại dương. Trong 4 hội nghị thượng đỉnh gần đây trong 3 năm qua, các nhà lãnh đạo của Ấn Độ và Mỹ đã thúc đẩy hợp tác an ninh nhanh chóng nhất có thể. Chẳng hạn, trong chuyến thăm của Modi tới Washington vào tháng 6/2017, Ấn Độ đã tuyên bố nước này sẽ mua 22 máy bay không người lái Guardian MQ-9B của Mỹ cho hoạt động giám sát trên biển. Vào ngày 10/7, Mỹ và Ấn Độ đã bắt đầu tiến hành phiên bản thế kỷ 21 của cuộc diễn tập hải quân hàng năm Malabar, mà lần đầu tiên có sự tham gia của tàu sân bay của 2 nước cũng như của Nhật Bản. Trong quá khứ, Ấn Độ nhìn chung lảng tránh các cuộc tập trận đa phương có sự tham gia của Mỹ, hay bất cứ hành động nào mà có thể bị Bắc Kinh nhìn nhận là một bước đi hướng tới liên minh với Mỹ. Có thể hiểu được là Trung Quốc muốn giữ tình hình như vậy.

Tuy nhiên, lo ngại quan trọng nhất của Trung Quốc tại dãy Himalaya có lẽ liên quan tới tương lai của Dalai Lama, người năm nay 82 tuổi. Các nhà lãnh đạo Ấn Độ đã cho Dalai Lama trú ẩn tại thị trấn Dharamsala trong gần 6 thập kỷ qua, nhưng Modi sẵn sàng chạm nọc của Trung Quốc là khu vực Tây Tạng hơn so với bất kỳ người tiền nhiệm nào trước đây. Năm 2014, ông đã phá vỡ nghi thức ngoại giao khi mời Lobsang Sangay, thủ tướng chính phủ lưu vong của Tây Tạng, tới dự lễ nhậm chức của ông. Tháng 4/2017, 6 tháng sau khi khuyến khích một chuyến thăm tương tự của đại sứ Mỹ, Modi đã cho phép Dalai Lama tới thăm các cộng đồng người Tây Tạng tại bang Arunchal Pradesh – vùng lãnh thổ mà Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền.

Bắc Kinh đã phản đối quyết liệt từng bước đi nói trên, với việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố vào tháng 4: “Trung Quốc sẽ cương quyết thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và các quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Trung Quốc có ý định lựa chọn người kế nhiệm Dalai Lama – như nước này đã làm đối với Panchen Lama vào năm 1995, giáo sĩ đứng hàng thứ 2 trong Phật giáo Tây Tạng. Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các khu vực do Ấn Độ và Bhutan kiểm soát bắt nguồn từ tuyên bố chủ quyền của nước này đối với Tây Tạng. Nếu Tây Tạng là một bộ phận không thể thiếu của Trung Quốc, thì mọi lãnh thổ từng do Tây Tạng kiểm soát (hay tuyên bố chủ quyền) cũng là một bộ phận không thể thiếu của Trung Quốc. Một vụ việc gây lo ngại và thu hút sự chú ý trên cao nguyên Doklam – nơi chỉ có những người chăn bò Tây Tạng theo mùa từ Tây Tạng và Bhutan sinh sống – có thể nhằm mục đích gửi một thông điệp ngầm tới Ấn Độ: cụ thể là không lặp lại quyết định của nước này che chở Dalai Lama năm 1959, nguyên nhân chính dẫn đến cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1962.

Các bài học cho chính sách của Mỹ

Vụ việc tại Doklam chứa đựng những bài học cho Mỹ và bất kỳ quốc gia nào khác quan tâm tới tính toán chiến lược toàn cầu của Bắc Kinh. Cho dù Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với vùng đất có diện tích hơn 35.000 dặm vuông do Ấn Độ quản lý dọc theo phần phía Đông của LAC, nước này đã không chọn bất cứ phần nào trong khu vực đó làm địa điểm cho một vụ việc quốc tế. Bằng cách tập trung vào Bhutan thay vì khu vực nói trên, Trung Quốc có thể đang cố gắng gây chia rẽ giữa Ấn Độ và đồng minh dễ tổn thương nhất của nước này. New Delhi sẽ bảo vệ lãnh thổ thuộc chủ quyền của mình, nhưng Bắc Kinh có thể muốn biết liệu Ấn Độ có đi tới chiến tranh trước một đối thủ mạnh hơn nhiều để bảo vệ đất đai của nước khác hay không. Có thể Ấn Độ sẽ rút lui và thỏa hiệp theo cách nào đó: chẳng hạn, cho phép Bhutan từ bỏ tuyên bố chủ quyền của nước này đối với Doklam để đổi lấy việc Trung Quốc từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình đối với 2 khu vực tranh chấp khác do vương quốc nhỏ bé này kiểm soát. Một số quốc gia tại Nam Á (Maldives, Nepal và Sri Lanka) hướng về Ấn Độ để tìm kiếm một mức độ bảo vệ an ninh nào đó, và một số nước tại Đông Nam Á (bao gồm Indonesia, Malaysia và Việt Nam) đã bày tỏ mối quan tâm tới can dự an ninh lớn hơn; một thất bại trong việc bảo vệ hoàn toàn nước phụ thuộc trực tiếp nhất của mình sẽ có những hệ quả nghiêm trọng đối với uy tín của Ấn Độ với vai trò một đối tác.

Ngoài ra, việc Trung Quốc nhanh chóng di chuyển thiết bị xây dựng đường vào khu vực tranh chấp cho thấy Bắc Kinh có thể đang sao chép cách tiếp cận của nước này trên Biển Đông, nơi Trung Quốc đang xây dựng cơ sở hạ tầng để thiết lập quyền sở hữu trên thực tế. Kể từ tháng 12/2013, Bắc Kinh đã cải tạo hơn 2.900 mẫu Anh, về cơ bản họ đang xây dựng đảo trên các dải san hô tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho tới nay, chiến lược này đã thành công. Không bên nào trong số các đối thủ của Trung Quốc chấp nhận các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh – nhưng không bên nào thực hiện một bước đi có ý nghĩa để loại bỏ một loạt đường băng, cơ sở hải quân và trạm giám sát mới của Trung Quốc.

Nhưng Doklam có thể không phải là một động thái cuối cùng như vậy bên ngoài lĩnh vực trên biển. Trung Quốc không chỉ có tranh chấp trên bộ chưa được giải quyết với Ấn Độ, mà người ta có thể hình dung rằng nước này cũng sẽ sử dụng cách tiếp cận theo kiểu “xây dựng và sở hữu” để mở lại các tranh chấp biên giới im lìm từ lâu với Việt Nam hoặc Myanmar. Nước này thậm chí có thể dùng lực đòn bẩy là các khoản đầu tư của mình vào các dự án cơ sở hạ tầng trên khắp châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh để rút tỉa nhượng bộ chính trị – một chiến thuật đã được các nước đế quốc châu Âu sử dụng trong hàng trăm năm.

Cuộc khủng hoảng tại Doklam hiện đã chấm dứt, nhưng tác động thực sự của sự việc này sẽ chỉ dần lộ ra trong những tuần và tháng sắp tới. Từ quan điểm của Mỹ, các dấu hiệu quan trọng nhất cần để ý tới là bất kỳ sự nhượng bộ nào của các bên có liên quan đối với Trung Quốc. Những nhượng bộ có thể bao gồm việc Bhutan âm thầm thừa nhận tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với các vùng lãnh thổ tranh chấp là Jarkalung và Pasamlung, vốn ít mang tính đe dọa về mặt chiến lược hơn đối với Ấn Độ. New Delhi có thể ngầm giảm bớt sự ủng hộ dành cho cộng đồng người Tây Tạng lưu vong. Hoặc có thể Việt Nam sẽ thấy Ấn Độ ít nhiệt tình hơn trước các đề nghị trong tương lai về can dự kinh tế hay an ninh. Bất cứ tiến triển nào như vậy có thể cho thấy Bắc Kinh chưa bị chặn lại đột ngột tại Himalaya, mà đã dùng lực đòn bẩy để biến xung đột này thành lợi thế cho mình.

Nếu Trung Quốc coi Doklam là một thành công, nước này có thể bị cám dỗ sử dụng khuôn mẫu này ở nơi khác, cho dù đó là một đảo san hô vòng ở Thái Bình Dương hay một mỏ đồng ở Cộng hòa Dân chủ Congo. Đó là lý do giải thích tại sao Washington không nên thư giãn vào lúc này. Washington nên chú ý kỹ tới hệ quả của tranh chấp, là cuộc đối đầu Trung-Ấn nghiêm trọng nhất trong 1 thế hệ. Cho dù binh lính đã rút về các vị trí trên đỉnh núi của họ, chỉ có thời gian mới cho biết những vụ ẩu đả của họ có thực sự lắng xuống hay chúng sẽ tạo ra những điều kiện cho một trận “lở tuyết”.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG

Tags: , , , ,