Lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ ở Bắc Mỹ 1776 – 1863

Phong trào đấu tranhh giải phóngnô lệ da đen đã có ý nghĩa vô cùng lớn lao không chỉ với người nô lệ ở Mỹ, với nước Mỹ mà còn cả với thế giới.

Lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ ở Bắc Mỹ 1776 – 1863

Ngay từ khi mới bắt đầu đấu tranh giành độc lập, nước Mỹ trong bản tuyên ngôn dân quyền do George Mason khởi thảo đã thẳng thừng đề xuất ”Tất cả nhân loại sinh ra đều quyền tự do, độc lập và đều có nhân quyền do thiên phú”.

Và trong bản tuyên ngôn độc lập do Thomas Fefferson soạn thảo ngày 4-7-1776 cũng viết “Toàn nhân loại sinh ra đều bình đẳng”.

Nhưng trên thực tế thì sao? Ngay tại thời điểm đó và nhiều năm sau này, cuộc sống của người da đen trên đất Mỹ vẫn là cuộc sống của người nô lệ. Những người da đen đã tham gia mọi bước thăng trầm, mọi sự kiện quan trọng trong lịch sử Mỹ, đã đóng góp một phần vào cuộc đấu tranh giành độc lập.Và đặc biệt là trong nền kinh tế Mỹ, vai trò của người nô lệ da đen càng to lớn hơn.Vậy mà tình cảnh sống của họ thì vô cùng cực khổ.Họ làm việc trong các hầm mỏ, công trường, nông trại, trên các cánh đồng, làm giàu cho nước Mỹ, nhưng thậm chí họ còn không được coi là một con người, một công dân .

Hoàn cảnh đó buộc các nô lệ da đen phải đứng lên đấu tranh giành “nhân quyền thiên phú”của mình.Cuộc đấu trnh đó cam go quyết liệt và vẻ vang như bất kì một cuộc đấu tranh vì hòa bình, vì con người nào khác. Ngót một thế kỉ chiến đấu đên khi giành được thắng lợi bước đầu là bản “Tuyên ngôn giải phóng nô lệ da đen ngày 1-1-1863, những người nô lệ da đen đã phải trải qua những hi sinh, mất mát vô cùng lớn lao.

I: Tình cảnh của những người nô lệ da đen trên đất Mỹ

1. Nguồn gốc của người nô lệ da đen ở Mỹ

Cùng với những người nhập cư da trắng, có nguồn gốc từ Châu Âu, một số lượng đông người đến nước Mỹ là nô lệ da đen. Nô lệ da đen đến nước Mỹ la do nhu cầu lao động trong các đồn điền, công xưởng, hầm mỏ…từ Bắc Mỹ tăng lên, trong khi nguồn lao động là người Châu Mỹ bản địa và người da trắng có nguồn gốc Châu Âu giảm đi.

Thực tế, thì việc buôn bán nô lệ ở Tân Lục Địa đã diễn ra từ lâu, trước khi người Châu Âu đến đây định cư. Họ là những tù binh chiến tranh bị bắt và bàn cho các lái buôn người Ả Rập ở BẮc Phi.Tây Ban Nha là nước đi đầu và tham gia vào việc buôn bán nô lệ mạnh mẽ nhất, vào khoảng thế kỉ XVI, khi họ thiết lập được hệ thống thuộc địa ở Châu Mỹ. Vào khoảng thế kỉ XVII, người Hà Lan, Anh, Pháp bắt đầu sử dụng lao đông nô lệ da đen trong sản xuất ở các thuộc địa của họ, đặc biệt là thuộc địa ở Châu Mỹ.

Để bảo đảm lợi nhuận, các chủ nô ở Châu mỹ phải tìm nguồn lao đông có thể làm việc cưỡng bức theo luật hoặc theo hợp đồng, mà không có ai tự nguyện làm.Những lao động tự do không chịu làm việc trong những điều kiện khắc nghiệt và nguy hiểm ở các hầm mỏ ở Nam Mỹ, hay các cánh đồng, các nông trại…Để bù đắp lại nguồn lao đông bản địa bị hao tổn do bệnh tật, mất sức và những lao động làm thuê không đáp ứng yêu cầu của công việc sản xuất, khai thác vất vả, nguy hiểm.Các chủ nô ở Bắc Mỹ đã quan tâm đến một nguồn lao động mới, đó là người da đen ở Châu Phi. Chính điều này làm cho số lượng người Châu phi được đưa đến Châu Mỹ tăng lên nhanh chóng.Vào đầu thế kỉ XVIII, người nô lệ da đen được bị đưa đến Châu Mỹ nhiều hơn người da trắng.Từ 1740 đến 1775 đã có hơn 10 triệu nô lệ da đen được đưa đến Châu Mỹ, chủ yếu là vùng Braxin và Caribe. Năm 1740 trong số nô lệ da đen được đưa đến Châu Mỹ có khoảng 120.000 người và tới 1775 là 260.000 người được đưa đến vùng đất thuộc Liên Bang Mỹ sau này.

Cũng giống như những người hầu da trắng được đưa đến các vùng thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, người da đen đầu tiên được đưa đến đây để làm người hầu trong gia đình vào năm 1619, họ bị bắt ở vùng Bắc Phi và được đưa đến đấu giá ở vùng Jamestown Ở Châu Mỹ thời này cũng xuất hiện nhiều chợ nô lệ. Tại đây người ta có thể bắt gặp các dòng chữ “Một đám nô lệ mới về, có đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ”

Cũng từ đó vai trò và số lượng người da đen ở Mỹ tang lên dần cùng với sự phát triển của kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp. Năm 1770, ở Mỹ có tới 200.000 nô lệ. Ở Nam mỹ nô lệ chiếm một phần ba dân số. Ở một số bang như Carolia, Sary, Virginia số nô lệ đông hơn người da trắng, chiếm hơn một nửa dân số của khu vực. Đến những năm 1800 số nô lệ ở Nam mỹ tăng lên hơn 4 triệu. Và càng về sau con số đó càng tăng lên.

2. Vai trò của người nô lệ với nước Mỹ

Ngay từ khi giành được độc lập, cho đến tận ngày nay, người da đen đã tham gia vào mọi thang trầm cũng như mọi biến cố của nước Mỹ. Nhưng ở đây chúng ta chỉ xét đếncuộc nội chiến 1861-1865 .Chỉ vậy thôi, vai trò của những người da đen với nước Mỹ cũng đã vô cùng to lớn .Tại thời điểm này chế độ nô lệ là một đặc trưng của nước Mỹ. Trong mọi biến đông, phát triển của nước Mỹ, đều có sự tham gia đóng góp của những ngưỡi nô lệ này.

2.1 Với cuộc đấu tranh giành độc lập của nước Mỹ.

Mặc dù trong thời điểm này, người nô lệ chỉ là những công cụ của chủ nô ở Bắc Mỹ, việc nước Mỹ có độc lập hay không cũng không liên quan nhiều tới họ nhưng họ vẫn tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh. Cả một đạo quân người da đen đã hi sinh trong khi chiến đấu ở bang NewYork. Một phụ nữ da đen tên là Hanet ở bang Masaxuset đã caỉ trang thành nam giới chiến đấu ngoan cường suất 17 tháng .

Khoảng 1778, khi tình hình cuộc chiến tranh đang ở giai đoạn quyết liệt. Đội quân của vùng Bắc Mỹ đang gặp khó khăn.Riêng ở miên nam đã có 5000 người da đen tham gia vào quân đội du kích. Họ hăng hái dũng cảm giết địch .Một người nô lệ da đen tên là longphơ trong một lần chiến đấu vào 1779 đã bí mật lẻn vào doanh trại quân địch nắm được khẩu lệnh của chúng, rồi dẫn đồng đội vào phục kích bắt sống 600 tên …

Như vậy, rõ ràng sự độc lập của Bắc Mỹ có sự đóng góp không nhỏ của những người nô lệ.

2.2.Với kinh tế

Những đóng góp to lớn nhất của những người da đen với nước Mỹ là những đóng góp về mặt kinh tế. Khi những lao động bản địa và lao động làm thuê gốc Châu Âu không đáp ứng nhu cầu sản xuất ở Bắc Mỹ, chính người nô lệ da đen là giải pháp, là cái phao cứu sinh cho nền kinh tế Mỹ. Người nô lệ đảm nhận tất cả những công việc mà các lao động tự do không chịu làm. Họ xuất hiện trong mọi ngành kinh tế.Nô lệ làm việc trong các hầm mỏ, các công trường thủ công, nô lệ làm việc trên các cánh đồng, các nông trại và ở cả các gia đình của những người chủ nô.Gai cấp tư sản Bắc mỹ giàu có chính lầ nhờ bóc lột lao động nô lệ.

Đặc biệt ở miền nam, là vùng đất có khí hậu và điều kiện thuận lợi cho việc phất triển nông nghiệp. Ở đây hình thành các nông trại và các đồn điền lớn.Và nô lẹ da đen chính là lao động chính trong các đồn điền, các nông trại này.

Năm 1793, khi Eli Whitney, một ngừoi ở bang Masauset phát minh ra máy làm bông, năng suất tách hạt bông ra bông tương đương với 50 người làm cong việc này bằng tay, đã làm cho trồng bông ở miền nam phát triển, thành ngành chính của khu vực. Năng suất tăng, nhu cầu trồng bông tăng, chỉ có nô lệ da đen mới đáp ứng được yêu cầu của công việc này. Họ trở thành lực lượng sản xuất chính làm giàu cho miền nam nước Mỹ. Nghề trồng mía cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp làm đường cũng đòi hỏi nhiều lao đông nô lệ. Chính vì thế trong thời gian này, số lượng nô lệ ở miền nam tăng vọt lên.

Ở miền bắc và miền trung nước Mỹ, do khí hậu nhiệt đới và đất đai cằn cỗi, không có những trang trại và đồn điền lớn.Nhưng không vì vậy mà vai trò của những người nô lệ ở đây sút kém.Nô lệ là những công nhân trong các hầm mỏ, nô lệ là những người thợ đóng tàu, những người làm việc trong các thuyền buôn, trong gia đình…

Hơn thế nữa, người nô lệ đến từ Châu Phi, mang theo những kinh nghiệm quý báu, giúp cho nền kinh tế Mỹ phát triển.Ví dụ:Họ đã mang đến vùng đất mới những kinh nghiệm truyền thống về chăn nuôi gia súc rất tốt, xuất khẩu gia súc trở thành nguồn thu nhập chính của bang Carolina. Người ở Bang Nam Carolina đã sử dụng lkĩ thuật dệt lưới đánh cá của những người nô lệ, và thực tế tốt hơn những lưới đến từ Anh…

Như vậy rõ ràng, ngườinô lệ đã đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế Mỹ, nhưmột cuốn sách đã từng viết là “Sự xuất hiện của người nô lệ đã làm thay đổi lớn xã hội Mỹ, thổi một nguồn sinh lực vào nền thương mại Mỹ”. 2.3 Với nền văn hóa

Những người Châu Phi đến Châu Mỹ đã mang theo những nền văn hóa truyền thống đậm đà tính dân gian của họ, làm giàu thêm cho nền văn hóa Mỹ.Những câu hát, điệu nhảy sôi nổi, nhiệt tình của họ đã làm cho nền văn hóa Mỹ thêm phong phú, nhiều điều còn đặc sắc cho tới tận ngày nay. Nhạc jarr chính là một minh chứng cống cho sự đóng góp của người da đen vào văn hóa Mỹ.

Như vậy chúng ta có thể thấy, vai trò của những người nô lệ da đen với Bắc Mỹ là vô cùng to lớn. Đối với sự phát triển mọi mặt của nước Mỹ, họ đều có công thúc đẩy. Vì vậy, họ xứng đáng được hiểu quyền lợi như bất kì một công dân Mỹ nào khác.

3.Tình cảnh của người nô lệ da đen ở Mỹ từ thế kỉ XVII đến đầu những năm 60 của thế kỉ XIX

Như đã từng đề cập đền ở phần trên, vai trò của người nô lệ ở nước Mỹ là vô cùng to lớn. Song thân phận và cuộc sống của họ thì vô cùng cực khổ.Ngay từ những ngày đầu xuất hiện ở Châu Mỹ.họ đã bị coi là những món hàng đem ra để lựa chọn, mua bán.Họ được xem là tài sản của chủ nô, số phận nằm trong tay chủ nô, do chủ nô định đoạt.

Những người nô lệ đầu tiên đến Mỹ, làm việc trên đất Mỹ.Ban đầu, sau khi hoàn thành hợp đồng, một số ít có thể sở hữu tài sản, còn phần nhiều có thể trở thành người tự do, song vẫn là tầng lớp mạt hạng dưới đáy xã hội. Đến giữa thế kỉ XVIII, ở các bang thuộc địa có nô lệ, bắt đầu thông qua các đạo luật, thường được biết đến với tên gọi chung là “Đạo luât nô lệ”. Nội dung chủ yếu của những đạo luật này là nghiêm cấm những người nô lệ không được tự do thân thể, không được sở hữu tài sản, vũ khí, không được đi học, không được tự do tụ họp, di chuyển nếu không được sự cho phép của chủ nô. Nô lệ ở hầu hết các bang bị hành hạ, đối xử thô bạo.

Ngay cả khi cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ đang diễn ra, những người chủ nô vẫn không quên bảo vệ quyền lợi của mình, vẫn lo lắng bảo vệ chế độ nô lệ. Khi bản “Tuyên ngôn dân quyền” được đưa ra với tuyên bố là “Tất cả nhân loại sinh ra đều tự do độc lập và có nhân quyền do thiên phú”.Thì ngay lập tức đã có những đại biểu lên tiếng chất vấn”. Nói như vậy có bao gồm cả những nô lệ của chúng tôi không”.Như vậy chúng ta có thể thấy được rằng, giới chủ nô đã coi nô lệ là tài sản vĩnh viễn, báo trước những khó khăn lớn cho cuộc đấu ranh giải phóng của những người nô lệ sau này.

Rồi cả ngay sau năm 1783, khi Bắc Mỹ đã giành được độc lập hoàn toàn, Liên Bang Mỹ có điều kiện thực hiện tuyên bố của bản Tuyên ngôn độc lập tháng 6-1776 rằng: “toàn nhân loại sinh ra đều bình đẳng” thì thân phận của những người da đen vẫn không khá hơn. Họ không được hưởng một chút tự do bình đẳng nào. Họ chiến đấu, họ làm giàu cho Liên Bang Mỹ, nhưng họ lại không được là công dân của Liên Bang, mà mãi những năm sau này ngươig Mỹ mới đấu tranh để thực hiện lí tưởng đó. Sau chiến tranh Mỹ mặc nhiên công nhận sự tồn tại của chế độ nô lệ. Đó là sự thỏa hiệp của chủ nô ở hai miềm nam, bắc.Chủ nô đã đưa được đại diện của mình lên làm tổng thống trong nhiều nhiệm kì, nên nhờ đó đã bảo vệ được chế độ nô lệ đồn điền ở miền nam.

Với cuộc sống và thân phận như vậy, một tất yếu là những người nô lệ da đen sẽ đứng lên đấu tranh giành quyền lợi cho mình.Và trên thực tế đúng là như vậy. Bởi “ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh”.

Trong thời gian tiếp theo, cuộc sống của những người nô lệ da đen vẫn vô cùng cực khổ. Họ bị bóc lột tàn tệ, bị bắt làm nhưng công việc trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, nguy hiểm. Ngày làm việc mười hai, mười ba tiếng đồng hồvới cường độ cao. Họ bị đánh đập, hành hạ.tính mạng hoàn toàn nằm trong tay chủ nô. Nhiều người nô lệ đã không thể chịu đựng được và bỏ trốn. Nhưng khi bị bắt lại những người này bị trói, bị đánh đập, bị hành hạ và sau đó bị giết chết trước mặt những người khác để răn đe

Khoảng năm 1861, phó tổng thống của Hợp Bang cac bang mới tách khỏi Liên bang đã phát biểu Người da đen không thể ngang bằng với người da trắng, chế độ nô lệ là chuyện đương nhiên của những người da đen”.

Với tình trạng đó thì việc những người da đen đứng lên đấu tranh là một tất yếu không thể tránh khỏi.

II: Cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ da đen ở Mỹ

1. Phong trào đấu tranh trước nội chiến

Vai trò của người nô lệ da đen vô cùng lớn trong nền kinh tế cũng như xã hội Mỹ, nhưng cuộc sống xủa họ lại vô cùng khổ cực, bất công như vậy. Do đó ngay từ sau khi Bắc Mỹ giành được độc lập, đặc biệt là từ những năm cuối của thế kỉ XVIII, phong trào đấu tranh giải phóng nô lệ đã phát triển mạnh mẽ. Hàng chục cuộc khởi nghĩa đã nổ ra.

Ở Ludiana nổ ra cuộc khởi nghĩa của nô lệ từ 1741 đến 1792. Ở Virginia năm 1792.Mùa xuân 1800, gần 1000 nô lệ tập trung ở Risơmen thuộc bang Virginia tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Gơrâybien. Năm 1822 có cuộc khởi nghĩa của nô lệ ở Nam Carolina. Năm 1831 một cuộc nổi dậy do Toocne lãnh đạo.

Đến những năm 50 của thế kỉ XIX, kinh tế đồn điền ở miên nam lâm vào tình trạng khủng hoảng. Việc sản xuất bông ở Ấn Độ đã làm Mỹ mất độc quyền sản xuất bông trên thế giới. Trong các đồn điền chủ nô không chịu cải tiến công cụ cải tạo đất đai. Họ chủ yếu dựa vào cắt máu nô lệ để sinh lợi nhuận. Đất đai càng bạc màu cằn cỗi. Chế độ nô lệ ngăn cản nhũng người di dân da trắng vào miền nam. Sự tồn tại của chế độ nô lệ ảnh hưởng đến cơ sở phát triển của công nghiệp. Và chính bản thân chủ đất cũng ngày càng thiếu đất. Để giải quyết vấn đề thiếu đất, nhiều chủ nô muốn đi về phía tây, phát triển chế độ đồn điền ở đó. Phía tây là vùng đất dự trữ màu mỡ. Chủ doanh nghiệp miền bắc muốn đi về phía tây để trồng ngô, lúa mì và nuôi gia súc. Họ muốn biến vùng này thành vùng hậu cần cho công nghiệp. Chủ nô muốn vào vùng đất mới với mục đích thay thế vùng đất bạc màu ở miền nam, muốn tiếp tục phát triển chế độ nô lệ. Mâu thuẫn về hướng phát triển phía tây ngày càng gay gắt.chủ công nghiệp miền bắc hướng tới một nền công nghiệp dân chủ vàcó thể cạnh tranh. Họ muốn bảo đảm thị trường quan thuề nội địa, để bảo vệ và khuyến khích nền công nghiệp trong nước.Chính lúc này chủ nô đóng chặt thị trường miền nam, không cho hàng hóa miền bắc vào, nhưng lại mở cửa nhập hàng hóa Anh. Tình hình này đã có ảnh hưởng khá lớn tới toàn bộ cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ.

Trong tình hình đó, năm 1848, tiểu bang California xin ra nhập vào Liên Bang Mỹ. Đứng trước việc này, nội bộ Mỹ đã tranh cãi kịch liệt. Vì các đại biểu miền bắc cho rằng California và Taxas là những lãnh thổ mới giành được, đều phải cấm việc nuôi nô lệ da đen. Các tiểu bang ở phía nam thì lại có chủ trương trái ngược. Sự tranh chấp này cũng không phải là sự tranh chấp đầu tiên giưa hai miền, mà từ 1819, khi Missouri xin ra nhập Liên Bang, đã gây ra tranh cãi về việc cho phép người địa phương này nuôi nô lệ da đen. Nhưng lúc bấy giờ đôi bên đã đi đến một thỏa hiệp để kết thúc sự tranh cãi. Đó là tại phía bắc của tiểu bang này thìcấm việc nuôi nô lệ, còn ở phía nam thì không. Sự thỏa hiệp này được lịch sử gọi là “Sự thỏa hiệp Missouri”.Nhưng lần này tình hình lại khác, vì sau khi trải qua ba mưoi năm phát triển, các đại biểu phía bắc không đồng ý thỏa hiệp với chế độ nô lệ da đen nữa.

Thái độ phản đối nuôi nô lệ da đen ở miền bắc ngày càng trở nên sôi nổi.trong những năm từ đầu thập niên 20 đến thập niên 30, những nhân vật dẫn đầu chống chế độ nuôi nô lệ da đen, cho dù họ là người miền bắc hay miền nam, da đen hay da trắng vẫn luôn bị tấn công hãm hại. Việc họ bị những tên côn đồ giết chết là chuyện thường xuyên.

Đến cuối thập niên 30, nước Mỹ xuất hiện một nô lệ da đen bỏ trốn, tên gọi là Frededck Douglass, đã từ Baltimase trốn đến Masaaxuset và tham gia vào các hoạt động chống chế độ nô lệ. Vào 1845, người này còn viết một cuốn nhật kí về mình, nhan đề “Narra tive of live of Frededck Douglass “bán rất chạy, nổi tiếng khắp Anh, Mỹ và thế giới.

Nô lệ da đen có rất nhiều hình thức chống lại bọn chủ nô: lãn công, đánh bon cặp rằng, giết chủ nô và tự sát…Nhưng hình thức phổ biến nhất là bỏ trốn. Họ trốn một mình hoặc dẫn theo cả nhà. Có nhiều nô lệ da đen chẳng những từ miền nam trốn lên miền bắc mà còn phải vượt lên tận biên giới Canađa mới được an toàn. Lí do là vì trong hiến phấp Mỹ cho phép chủ nô có quyền đến các tiểu bang ở miền bắc để lùng kiếm những người nô lệ da đen bỏ trốn. Một khi những người bỏ trốn bị bắt về, sẽ bị chủ nô mang ra trước đám đông đánh chết để răn đe. Dovậy, người da đen ở Canađa năm 1800 chỉ có 4000 người, đến 1850 đã tăng lên 55.000 người.

Nhưng mọi sự ngược đãi cũng như sự sát hại chỉ dẫn đến sức chống trả ngày càng to lớn hơn, cũng như tạo thanh thế cho các tổ chức chống nô lệ da đen hoạt động ngày càng mạnh mẽ hơn. Đồng thời qua đó cũng làm cho mọi người xung quanh đồng tình, ủng hộ, sẵn sàng giúp đỡ cho những nô lệ da den bỏ trốn. Mặt khác bản thân người nô lệ da đen biết mình bị bắt trở lại thì sẽ bị đối xử tàn nhẫn. Nên khi thấy không thể trốn thoát thì họ không để cho mình bị bắt sống, mà trước tiên họ giết chết những đứa con của mình rồi sau đó tự sát theo.Trong khi đó, mọi người trong xã hội biết được thảm cảnh của những nô lệ da đen bỏ trốn khi bị chủ bắt lại nên rất thông cảm, tìm cách che dấu cho nô lệ. Dần dần, ở cấc địa phương này đã hình thành nên những đường dây giúp nô lệ bỏ trốn. Có những người dùng ngay cả ngôi nhà của mình làm nơi ẩn nấp cho những người nô lệ, rồi sau đó tìm cách chuyển họ đến trạm xa hơn. Những đường dây bí mật do họ tổ chức không bao lâu sau trở thành những đường dây chuyển nhưng người nô lệ da đen đi khắp mọi nơi.Từ 1840 đến 1860 những “con đường bí mật” này đã phát triển một cách nhanh chóng. Năm 1850, việc chủ nô đi lùng bắt những nô lệ bỏ trốn đã trở nên khó khăn, vì họ không được sự ủng hộ của thị dân, thậm chí cảnh sát cũng không giúp đỡ họ.

Phong trào chống chế độ nô lệ da đen liên tục phát triển không nhừng và cũng không uổng công., đến cuối 1849, khi thảo luận vấn đề các tiểu bang mới xin ra nhập Liên Bang, tuy bao giờ thế lực của những người ủng hộ nuôi nô lệ da đen cũng thắng thế, nhưng thế lực chống nuôi nô lệ cũng giành được những thắng lợi bước đầu.Tháng 8-1850, Quốc hội Mỹ đã thông qua và trở thành luật, quyết định chấp nhận hai tiểu bang California và Taxas vào Liên Bang nhưng chỉ cho phép Taxas được nuôi nô lệ da đen còn California thì cấm hẳn không cho nuôi.

Ngoài ra, quốc hội còn thông qua một đạo luật quan trong khác là cấm tuyệt đối không được mua bán nô lệ ở thủ đô Washington.

Nhưng sau đó, quốc hội bỗng thông qua “Luật về nô lệ da đen bỏ trốn” rất tồi tệ, quy định chính phủ Liên Bang phải có trách nhiệm tìm bắt những người nô lệ da đen bỏ trốn từ miền nam lên miền bắc để trả lại cho chủ nô. Đó là một sự thỏa hiệp lớn giữa miền bắc với giới chủ nô miền nam. Sau khi luật này được thông qua tình hình nô lệ da đen bỏ trốn đã hoàn toàn thay đổi có thể nói là hết sức bất lợi cho những người nô lệ, vì trước đó việc tìm bắt những người nô lệ bỏ trốn chỉ là chuyện riền của bọn chủ nô, giờ đây luật này ssã đặt thành trách nhiệm của chính phủ Liên Bang .Điều này làm cho bọn chủ nô hết sức vui mừng.

Nhưng sau đó ít lâu, người Mỹ đã nhận được bài học phản hồi.Tháng 4-1851, số nô lệ da đen ơ bang Georgia bỏ trốn bị bắt lại tai Boston, chính phủ Liên Bang dùng 300 binh sĩ áp giải họ xuống bến tàu, để trả về miền nam. Dân chúng vùng này thấy cảnh đó đã bàn tán xôn xao, trách chính phủ đã chịu làm công cụ cho bọn chủ nô.Lúc bấy giờ có một người phụ nữ tên là Harriet Stowe do quá bất bình và xuất phát từ lòng trọng chính nghĩa, đã viết ra một cuốn sách nhan đề “Túp lều của bác Tôm”, xuất bản tháng 3-1852 gây trấn động trên toàn nước Mỹ và được bán rộng ra toàn thế giới. Đây là cuốn sách gây xôn xao dư luận và được nhiều người đọc nhất lúc bấy giờ. Nó cùng với “Luật vềnô lệ da đen bỏ trốn” đã gây ra những trấn động lớn trong lương tri con người.Do đó mâu thuẫn về vấn đề nô lệ da đen ở Mỹ càng trở nên gay gắt, và đây là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc nội chiến 1861-1865.

Phong trào đấu tranh chống chế độ nô lệ da đen ngày càng lên cao. Lực lượng tham gia cuộc chiến này không còn chỉ là nô lệ, thị dân nữa, mà còn có cả người giàu có và chủ tư sản. Những người công nhân Mỹ thì nhận thức được rằng “Nước Mỹ là nơi mà ở đó nô lệ da đen bị sỉ nhục và đày đọa thì lao động da trắng cũng không được giải phóng”. Vì vậy họ sát cánh bên những người nô lệ trong cuộc đấu tranh này.

Năm 1853 đã xảy ra một sự kiện lớn, một lãnh tụ đảng dân chủ, mà cũng là chủ tịch của ủy ban lãnh thổ thuộc thượng nghị viện, tên là Stephen Arnold Douglas đã đưa ra một dự luật gọi là Kansans_Nebraska, chia vùng đất phía bắc của tiểu bang Missouri vốn bị cấm ngặt khong cho nuôi nô lệ theo “Thỏa hiệp Missouri”thành hai tiểu bang mới là Kansans và Nebraska, và cho phép Nebraska được tự do chọn lựa có ghi vào hiến pháp của tiểu bang mình là có nuôi nô lệ hay không.

Các nhà chính trị miền bắc đã phán đối quyết liệt “Luật Kansans_Nebraska”nhưng S.A.Douglas đã khống chế phiếu trong quốc hội nghiêng về chủ trương của mình, mặc dù sự thắng thế đó là rất mỏng manh nhưng đạo luật trên cũng đã được thông qua vào tháng 5-1854. Điều này càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa đại biểu phía bắc và phía nam vốn dĩ đã rất gay gắt.

Các đại biểu phía nam có chủ trương xây dựng một chính phủ tán đồng chủ trương cho phép nuôi nô lệ tại tiểu bang Kansans. Do vậy ở miền nam lúc này xuất hiện nhiều đoàn thể chủ trương được phép nuôi nô lệ da đen. Những đoàn thể này hoạt động sôi nổi trong số những di dân tại tiểu bang Kansans. Do vậy những đoàn thể chủ trương cấm nuôi nô lệ da đen ở miền bắc cũng nhanh chóng đưa người đến Kansans hoạt động theo chủ trương của mình. Kansans trở thành vùng đất quy tụ hai thế lực chống đối và cho phép nuôi nô lệ da đen.

Tháng 3-1855, ở Kansans tiến hành bầu cử nghị viện cấp tiểu bang. Thế lực của phe ủng hộ chế độ nô lệ ở đây rất mạnh, nên họ đã ngăn cản những cử tri ủng họ phái chống nuôi nô lệ không cho đi bỏ phiếu. Kết quả, nghị viện của tiểu bang này đã trở thành thế giới riêng của chủ nô, và lập tức thông qua hiến pháp của tiểu bang, tuyên bố việc nuôi nô lệ da đen là hợp pháp .Đồng thời, họ còn định xử bất cứ ai chống việc nuôi nô lệ hoặc giúp nô lệ bỏ trốn đều bị tử hình.Thế là bọn chủ nô ở Kansans liền thi hành kiểu thống trị khủng bố. Khắp nơi xuất hiện những kẻ tự xưng là “Những tay anh chị vùng biên giới” tóc không hớt, đầu không trải, mặt không lau, dưới đôi giày ống dắt dao găm, lưng đeo súng lục tha hồ đi gây sự với những người chủ trương cấm nuôi nô lệ”.

Tháng 10-1855, những chính khách chủ trương cấm nuôi nô lệ da đen đã tiến hành mộy cuộc họp tại nơi cư trú của họ là Lawrence khởi thảo một bản hiến pháp cấm nuô nô lệ của tiểu bang.Vậy là từ 1856 ở Kansans tồn tại song song hai bản hiến pháp trái ngược nhau.Sự mâu thuẫn này đã dẫn tới những xung đột võ trang. Tháng 5-1856 phái tán thành nuôi nô lệ đã mở một cuộc tấn công vào Lawrence, cướp bóc sạch tài sản của đối phương.

Mặt khác, việc thông qua đạo luật Kansans-Nebraska cũng gây ra dư luận xôn xao ở miền bắc nước Mỹ. Tất cả các nhà chính trị ở các tiểu bang, thị trấn đã mở các cuộc họp và thành lập một chính đảng mới:Đảng cộng hòa. Đảng này chỉ dùng một khẩu hiệu duy nhất để đoàn kết cử tri: “Chấm dứt hành động bạo lực ở Kansans, ngăn chạn không cho chế độ nô lệ da đen tràn sang lãnh thổ phía tây.”Đảng đã đề cử John.C.Fremont làm ứng cử viên tổng thống năm 1856. Đảng này tuy mới thành lập nhưng đã giành được 130.000 phiếu, trong khi đó ứng cử viên của đảng dân chủ là Jame Buchanan chỉ đắc cử với số lượng là 180.000 lá phiếu. Điều này cho thấy phong trào chống nuôi nô lệ đang phát triển rất mạnh mẽ.

Tháng 5-1857, xảy ra một sự kiện có tác động rất lớn tới cuộc đấu tranh chống chế độ nô lệ. Đó là một cặp vợ chồng người nô lệ da đen tên là Đret Scott, vốn là nô lệ ở Missouri, họ đã từng được chủ nô đưa lên miền bắc, họ đã gặp nhau, kết hôn và sinh con ở đó. Đến 1838, họ được chủ nô đưa về Missouri, Scott bèn đâm đơn xin cho mình và gia đình được tự do, với lí do đã từng đến vùng đất cấm nuôi nô lệ ở Mỹ và con của họ cũng được sinh ra ở vùng đất này. Năm 1852, tòa án Missouri đã phán quyết: Một người nô lệ khi đến lãnh thổ tự do có thể xin làm người tự do, nhưng khi đã trở vế tiểu bang Missouri thì tiểu bang này có quyền bác bỏ lời xin đó. Những chính khách chủ trương cấm nuôi nô lệ đã ủng hộ Scott, họ đâm đơn vào tòa án tối cao xin xử lại vụ án đó.

Năm 1856, tòa án tối cao đã thụ lí lại vụ kiện. Lúc bấy giờ tòa án tối cao đang bị khống chế bởi các nghị viên miền nam, nhất là viên tránh án Roger.B.Taney, là một chủ nô ở Maralan. Tháng 11-1856 James Buchaman đắc cử tổng thống, ngày 4-3-1857, trong diễn văn nhậm chức có nhắc tới vấn đề này. Qua đó cho thấy mức độ quan trọng của vụ án này. Hai ngày sau, viên tránh án Taney đã đưa ra phán quyết:Người da đen không có quyền nộp đơn xin tự do tại tòa án, bởi vì người da đen trước đây không bao giớ được coi là công dân của nước Mỹ. Do vậy gia đình Scott vẫn là nô lệ.Không những vậy, Taney còn đi xa hơn nữa, trong bản phán quyết này, ông ta tuyên bố:Bản thỏa hiệp Missouri là vi phạmm hiến pháp.Lí do của ông ta rất đơn giản:Trên mọi vùng lãnh thổ của Liên Bang, chính phủ Mỹ có trách nhiệm thi hành pháp lệnh nhân quyền, nhưng pháp lệnh đó chỉ áp dụng cho riêng người da trắng, người da đen không phải là công dân, thì đương nhiên dưới pháp lệnh của Liên Bang họ không được hưởng quyền lợi gì cả.Pháp lệnh nhân quyền đã là một đạo luật bảo vệ tính mạng và tài sản của công dân, mà người da đen lại là tài sản riêng của người da trắng, nên quốc hội không có quyền tuyên bố giải phóng tài sản của công dân, vì làm như vậy là vi phạm hiến pháp.

Đa số chính khách ở khu vực miền bắc lúc này cũng cảm thấy hoang mang:Quốc hội thực sự có quyền ngăn cấm nuôi nô lệ hay không? Người công dân chẳng lẽ không được hưởng quyền tự do hay sao.Năm 1858, ít nhất có hơn một nửa miền bắc ủng hộ quan điểm của Douglas:Đối với chế độ nô lệ da đen, không phải tòa án, cũng không phải quốc hội có quyền cho phép hay không, quyền đó chính là ở bản thân nhân dân.

Trong bối cảnh đó, xuất hiện Abraham Lincoln, là một người thuộc đảng cộng hòa, tài giỏi và chống nuôi nô lệ da đen.Ông được cử ra đọ sức với Douglas trong cuộc tranh cử tổng thống và giữa họ đã diễn ra những cuộc khẩu chiến nổi tiếng về vấn đề nô lệ. Họ đều có quan điểm :Người da đen thấp hơn người da trắng một bậc, nếu họ được tự do phải nhanh chóng dưa họ về Châu Phi. Chỗ khác nhau giữa họ là Douglas hoàn toàn không quan tâm đến người da đen phải chăng là nô lệ, và người da trắng dẫn họ vào vùng đất nào. Lincoln thì cho rằng chế độ nô lệ là một sai lầm và không thể để cho nó phát triển. Kết quả là Douglas lai tái cử.

Giữa lúc đó, tháng 10-1859 xuất hiện một người tên là John Brown, đã kéo 21 đồng đảng đến tấn công kho vũ khí ở Virginia, với ý đồ giải phóng nô lệ da đen. Ông ta cho rằng giới chủ nô chẳng qua chỉ có gần 20.000 người vậy tại sao lại có quyền khống chế hơn 4 triệu nô lệ, chỉ cần có vũ khí, có người lãnh đạo, họ sẽ nổi lên lật đổ sự thống trị của bọn chủ đồn điền. Nhưng có một điều ông ta không ngờ là không ai ủng họ ông ta, ông ta và đồng đảng bị bắt. Brown bị xử treo cổ.

Tiếp đó, phong trào đấu tranh chống chế độ nô lệ da đen vẫn phát triển mạnh mẽ. Năm 1860 Lincoln trúng cử tổng thống, một số bang miền nam bất mãn, đã tách khỏi Liên Bang và tháng 2-1861 các bang này đã tổ chức thành một Liên Bang mới, gọi là Liên Bang Mỹ (Hợp Bang), từ đó nước Mỹ nổ ra cuộc nội chiến kéo dài từ 1861 đến 1865.

Như vậy, chúng ta có thể thấy ngay từ khi bắt đầu đến trước thập niên 60 của thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh giải phóng nô lệ phát triển mạnh mẽ thu hút không chỉ nô lệ mà mọi tầng lớp nhân dân Mỹ tham gia, và bằng nhiều hình thức đấu tranh phong phú, cuộc đấu tranh này đã ảnh hưởng nhiều tới xã hội Mỹ lúc bấy giờ và là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc nội chiến 1861-1865.

2. Cuộc đấu tranh thắng lợi. Tuyên ngôn giải phóng nô lệ da đen 1-1-1863

Từ tháng 2-1860, nước Mỹ tồn tại tình trạng hai tổng thống, hai quốc hội, hai hệ thống quân đội đối lập nhau. Chính quyền miền nam tuyên bố thừa nhận chế độ nô lệ và coi nô lệ là tình trạng đương nhiên của người da đen. Cuộc chiến tranh hai miền bùng nổ. Mở đầu là ở Nam Carolina ngày 12-4-1861, rồi diễn ra ác liệt ở biển, dọc sông Mitxixipi, trên các tiểu bang ở miền nam, dọc Đại Tây Dương…Lúc đầu các tiểu bang ở miền nam chỉ coi đây là cuộc đấu tranh thủ quyền độc lập, tự chủ, bình đẳng cũng như quyền được nuôi nô lệ da đen, quyền được đư nô lệ da đen đu bất cứ nơi nào. Còn miền bắc cho rằng cần bảo vệ sự toàn vẹn của Liên Bang, dạy cho kẻ nổi loạn một bài học và kết thúc chế độ nô lệ da đen. Đến khi chiến sự ngày càng ác liệt họ mới giật mình sửng sốt.Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh này, cả người miền nam lẫn người miền bắc đều cho rằng đây là cuộc chiến của người da trắng, không can hệ gì tới người da đen. Do vậy, người da đen ở miền bắc khi tình nguyện chiến đấu vì Liên Bang đã bị người da trắng từ chối. Họ cho rằng việc người da đen tham gia chiến đấu trong cuộc chiến của người da trắng là không phù hợp, và người da đen không thể trở thành những người lính tài giỏi.

Khi quân Liên Bang tiến vào lãnh thổ Hợp Bang, một số nô lệ tị nạn trong các doanh trại của Liên Bang, một số sỹ quan cho phép họ ở lại, một số trả họ lại cho các chủ nô ở miền nam. Khi tướng Liên Bang là Son Frenmont tuyên bố tất cả nô lệ vùng Missouri do ông cai quản đựoc tự do, chính tổng thống Lincoln đã bác bỏ lệnh đó và cách chức ông ta.Điều này chứng tỏ rằng ngay phái chống nuôi nô lệ cũng không muốn tiêu diệt nó đến cùng. Việc này lí giải vì sao, ngay cả khi tuyên ngôn giải phóng nô lệ ra đời, 2người nô lệ vẫn bị trà đạp.

Cuối tháng 7-1862, khi chiến sự đang diễn ra quyết lệt, hai bên đang phải chịu những tổn thất nặng nề. Thuận theo yêu cầu của cựu chiến, nhận thấy việc ủng hộ thủ tiêu chế độ nô lệ ngày càng tăng và xuất phát từ niềm tin của chính mình. Thổng tống Lincoln đã chuyển lên nội các bản thảo. Tuyên ngôn giải phóng nô lệ lần đầu tiên(22-7-1862). Ông ra lệnh cho quân đội miền nam phải chấm dứt cuộc bạo đông vào ngày 1-1-1863, nếu không thì “Chúng tôi sẽ lấy tư cách là tổngtư lệnh quân đội Mỹ, để giải phóng tất cả nô lệ da đen của các người, toàn bộ nô lệ sẽ trở thành người tự do”. Tổng thống Lincohn đã có ý định dùng chính sách giải phóng nô lệ để cứu vãn sự toàn vẹn của Liên Bang.

Ngày 1-1-1863, bản “Tuyên ngôn giải phóng nô lệ da đen” được tuyên bố rộng rãi và chính thức có hiệu lực. Nội dung chính của bản Tuyên Ngôn là:Tổng Thống Lincoln cuối cùng đồng ý dân da đen trong quân đội và hải quân, sự giải phóng nô lệ da đen là hoàn toàn hợp lí, và không thể hạn chế sự tự do của họ mà cần phải võ trang cho họ.Cách đây ba năm, Lincoln đã từng cho rằng Brown là một thằng điên, nhưng bây giờ ông không thể không để cho hàng vạn người da đen tham gia vào quân đội của Liên Bang.

Sự ra đời của bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ ngày 1-1-1863là thắng lợi của quá trình đấu tranh hàng trăm năm của những người nô lệ da đen và các tầng lớp khác ủng hộ việc cấm nuôi nô lệ da đen trên đất Mỹ. Đây là bước ngoặt lớn đối với cuộc sống của những người nô lệ nói riêng và của cả nước Mỹ nói chung. Đặt cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ đi đến thắng lợi cuối cùng sau này.

III: Ý nghĩa và hạn chế của cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ da đen ở Mỹ trong giai đoạn từ 1783 đến 1863

1. Ý nghĩa

Phong trào đấu tranhh giải phóng nô lệ da đen đã có ý nghĩa vô cùng lớn lao không chỉ với người nô lệ ở Mỹ, với nước Mỹ mà còn cả với thế giới. Cuộc đấu tranh thắng lợi, bản Tuyên ngôn ngày 1-1-1863 ra đời trên danh nghĩa toàn bộ nô lệ đã trở thành người tự do, nước Mỹ thực sự trở thành một nước “tự do, bình đẳng, bác ái”, mội người dân Mỹ đã thực sự có “nhân quyền thiên phú”. Đây thực sự là cơ sở lí luận và là động lực mạnh mẽ, niềm tin vững chắc cho những người nô lệ mạnh dạn đứng lên đấu tranh giành quyền sống cho mình và đồng bào mình, đưa cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi cuối cùng trong giai đoạn sau này.

Đối với nước Mỹ, thắng lợi của cuộc đấu tranh này đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt nền kinh tế Mỹ, cơ sơ tồn tại của kinh tế miền nam là bóc lột nô lệ, phát triển nền nông nghiệp dựa trên việc bóc lột sức lao động của nô lệ là chủ yếu bị lung lay đến tận gốc. Buộc thế lực chủ nô ở miền nam phải thay đổi phương thức kinh doanh. Thế lực chống nuôi nô lệ ở miền bắc thắng thế, tạo điều kiện cho kinh tế công thương nghiệp phát triển trên toàn nước Mỹ.

Về mặt xã hội, nó làm cho cuộc nội chiến của Mỹ chuyển sang một thời kì mới với ưu thế hoàn toàn thuộc về phe Liên Bang vì có sự ủng hộ và tham gia của nhân daan ngày càng mạnh, đặc biệt là do có sự tham gia của đông đảo lực lượng nô lệ da đen vào quân đội.Xã hội Mỹ bước vào giai đoạn tiến bộ hơn, người da trắng hay da đen cũng đều là công dân Mỹ.Văn hóa của người da đen có cơ hội phát triển làm phong phú hơn cho0 nền văn hóa Mỹ…

Đối với thế giới, bản Tuyên Ngôn ngày 1-1-1863 không chỉ là thắng lợi của nô lệ Mỹ, mà là thắng lợi của nô lệ toàn thế giới, thắng lợi của những người nô lệ ngày ngày bị áp bức, bóc lột tàn tệ.Cổ vũ họ, thôi thúc họ đứng lên giành quyền sống, quyền sung sướng và quyền mưu cầu hạnh phúc.

2. Hạn chế

Bên cạnh những ý nghĩa lớn lao đó, cuộc đấu tranh của những người nô lệ trên đất Mỹ còn nhiêug hạn chế. Tuyên ngôn giải phóng nô lệ ra đời, nhưng trên thực tế không một nô lệ nào được giải phóng. Bởi bản tuyên ngôn chỉ áp dụng cho những vùng không thuộc quyền kiểm soát của Liên bang, không bao gồm bốn bang có nô lệ và những vùng ở miền nam do Liên Bang chiếm đóng.Điều này làm cho bản Tuyên ngôn lúc bấy giờ gần như không được áp dụng vào thực tế, mà chỉ nằm trên lí thuyết thôi.

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó có rất nhiều. Đó là do những người chủ trương chống lại chế độ nô lệ, mà tiêu biểu là tổng thống Lincoln trong tư tưởng vẫn chưa muốn tiêu diệt tận gốc chế độ này.Ông cho rằng người da đen thấp hơn người da trắng một bậc.Vì vậy trong hành động của họ vẫn chưa đủ cương quyết, mạnh tay. Họ có nhiều thỏa thuận với chủ nô(ví dụ như thỏa hiệp Missouri). Họ chỉ muốn lợi dụng chế độ nô lệ để đạt được những mục tiêu kinh tế, chính trị của mình, chứ hoàn toàn chưa xuất phát từ quyền lợi của bản thân người nô lệ.

Thứ hai, là do bấy giờ chế độ nô lệ còn qua phát triển, thế lực của chủ nô vòn quá mạnh. Ở nước Mỹ, đặc biệt là ở miền nam, nô lệ là lực lượng lao động chủ yếu, ở hầu hết các bang ở khu vực này chế độ nô lệ đều phát triển.Vì vậy, đấu tranh để giành được thắng lợi hoàn toàn ngay lập tức là rất khó .

Thứ ba là do những người nô lệ vẫn chưa có niềm tin vào chiến thắng của cuộc đấu tranh, chưa đoàn kết với nhau.hơn nữa, họ vẫn chưa có một đường lối, lí tưởng đúng đắn để soi đường. Những người lãnh đạo cuộc đấu tranh chủ yếu là những người da trắng.Vì vậy hạn chế rất nhiều sức mạnh của họ.

Thứ tư là, Tổng thống Lincoln, người chống chế độ nô lệ mạnh mẽ nhất, và là người có điều kiện để làm việc này tốt nhất lại bị ám sát và mất quá sớm, khi những lí tưởng, mục đích của ông chưa hoàn thành. Người kế nhiệm ông là Andrew Johnson là người không tích cực lắm trong việc chống chế độ nô lệ da đen, thậm chí còn hơi nghiêng về phía ủng hộ nuôi nô lệ, đã từng có những hành động giúp chế độ nô lệ phát triển trở lại.Vì vậy cuộc đấu tranh của những người nô lệ sau khi Lincoln qua đời lại càng mạnh mẽ, quyết liệt nhưng cũng nhiều khó khăn hơn.

C. KẾT LUẬN

Cuộc đấu tranh giải phong nô lệ ở Bắc Mỹ từ khi chính thức bắt đầu đến khi giành được thắng lợi đầu tiên kéo dài gần một trăm năm. Đó là một cuộc đấu tranh vĩ đại và vẻ vang của lịch sử nhân loại. Những người da đen sinh ra là người như những ngưoài da trắng nhưng họ lại phải hứng chịu nhiều bất công, đau khổ. Họ đã đứng lên chiến đấu và chiến thắng.

Ngày nay ngững người da đen trên đất Mỹ, cũng như trên thế giới đang được thừa hưởng những thành quả của cuộc đấu tranh đó. Họ đã được ngang hàng với những công dân khác của các quốc gia. Có quyền công dân, có quyền phát triển, có quyền sống sung sướng, quyền có địa vị cao trong xã hội… Đây là một tiến bộ hơn hẳn của thế giới hiện đại. Người da đen đã tham gia mọi hoạt động của xã hội, đã làm và làm tốt mọi công việc người da trắng có thể làm, họ đã làm nên nhiều việc vĩ đại, có ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống, xã hội nhân lọai. Người da đen giữ địa vị quan trọng trong xã hội. Họ xuất hiện ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, mọi ngành, mọi nghề… Rõ ràng “Người da trắng và người da đen ngang nhau”, không có việc gì người da trắng làm được mà người da đen lại không.

Song, hiện nay trên thế giới vẫn còn tồn tại tư tưởng phân biệt, kì thị chủng tộc sai lầm, phản động. Có lúc tư tưởng này trở thành vấn đề nóng bỏng của nhân loại. Những kẻ theo khuynh hướng sai lầm này đang ra sức tăng cường ảnh hưởng, gây ra bao đau đớn cho những người da màu. Khoa học và cả lịch sử đã chứng minh đó là một học thuyết sai lầm và phản động cần phải được ngăn chặn.

Chúng ta cần biết rõ điều này, để có được lập trường, tư tưởng niềm tin vững mạnh để chống lại học thuyêt kì thị chủng tộc phản động, sai lầm đó. Góp phần xây dựng thế giới mới tốt đẹp hơn.

————————————————

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đặng Đức An:Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, tập hai, Nhà xuất bản Giáo Dục;Hà Nội;2003.
2.Vương Kính Chi:Lược sử nước Mỹ;nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh’TP Hồ Chí Minh;2000.
3.Nguyễn Thái Yên Hương: Liên Bang Mỹ, đặc điểm văn hóa-xã hội, Viện Văn Hóa và Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin;2005.
4.Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng: Lịch sử thế giới cận đại, nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 2005.
5.Bộ thông sử thế giới vạn năm, tập một, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2000.
6.GS.Lê Quang Long, Phạm Hữu Tiên, Nguyễn Hiệu Đinh, Nguyễn Đức Dũng và cộng sự, Niên giám lịch sử Hoa Kì, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2005.

Theo TAILIEU.VN

Tags: , , , ,