Chiến thắng Điện Biên Phủ qua góc nhìn một Việt kiều Pháp

Khi cụ Hồ biết tin Pháp chọn Điện Biên Phủ để tiến hành trận chiến quyết định, cụ lột ngay chiếc mũ trên đầu và ném lên bàn. Chỉ thẳng vào chiếc mũ đang lật ngửa – ví như một thung lũng sâu và rộng, cụ nói: “Quân Pháp sẽ bị chôn sống ở đây”.

Chiến thắng Điện Biên Phủ qua góc nhìn một Việt kiều Pháp

Bài viết của tác giả Laura Lam – nữ Việt kiều Pháp.

Cuộc đối đầu Điện Biên Phủ – sai lầm lớn nhất của Pháp

1. Châu chấu đá voi

Đó là năm 1999. Tôi đang ngồi ở vườn hoa trước ngôi nhà ở quê cùng với Đại tá Phan Duong và vài người bạn đang có kỳ nghỉ Hè ở Pháp. Điều trớ trêu là khu ngoại ô thành phố Fontainebleau này là nơi Tướng Henri Navarre, Tư lệnh Lực lượng Pháp ở Đông Dương, đã từng sống nhiều năm tuổi thơ. Duong nói về chiến tranh, đặc biệt là cuộc chiến Điện Biên Phủ năm 1954. Mỗi lần kể đến một đoạn cao trào, Duong lại cất giọng hát một bài mà anh đã hát cùng những chiến sĩ Việt Minh trong trận đánh này. Hồi đó, Duong là một sĩ quan quân đội cấp thấp, xung phong tham gia trực tiếp chiến đấu.

Trong cuộc chiến 7 năm với quân đội Việt Minh (bắt đầu năm 1946), quân đội Pháp đã để mất danh tiếng cũ khi chuốc lấy con số thương vong khổng lồ trên chiến trường. Năm 1952, đã có 90.000 lính Pháp chết, bị thương hoặc mất tích. Một sĩ quan cấp cao của Bộ Quốc phòng Mỹ là John Ohley, người theo dõi sát sao tình hình cuộc chiến, nhận xét: “Pháp đã mất số sĩ quan nhiều hơn cả số tốt nghiệp các trường sĩ quan của nước này”.

Bị đẩy lùi về thế phòng thủ, Pháp lo nhất là làm thế nào để giành ưu thế trước những lính du kích. Rõ ràng là Pháp đang rất cần một giải pháp quyết định. Vào thời điểm đó, quan điểm quốc tế nghiêng về dạng giải pháp đã được thương lượng, nhưng Pháp không muốn. Điều này càng tăng thêm tính cấp bách cho chương trình nghị sự của quân đội Pháp.

Để chứng tỏ ưu thế của nước mình, tai hại thay, Pháp đã chọn một cuộc đối đầu tại Điện Biên Phủ – vốn lâu nay đã là một trong những căn cứ của Pháp, vì Pháp kiểm soát con đường vào Lào. Nằm ở khu vực hẻo lánh, cách bờ biển 450km và cách Hà Nội hơn 400km, trên thực tế, chỉ có thể dễ tiếp cận Điện Biên Phủ bằng đường không. Đây là một thung lũng thanh bình, dài 20km và rộng 5km, bao quanh là một chuỗi các ngọn núi. Dân số chỉ hơn 10.000 người, sống rải rác trong những ngôi làng nhỏ ở vùng đất trồng trọt bằng phẳng. Khu vực này có lượng mưa lớn nhất Vùng Cao và giữa những quả đồi vây xung quanh ngập tràn màu xanh ngút mắt.

Trong gần 1 thế kỷ, chế độ thực dân đã tận dụng thung lũng Điện Biên Phủ để làm trung tâm cung cấp chính cho các hoạt động phân phối độc quyền thuốc phiện của chúng ở Đông Dương. Luôn có một sĩ quan Pháp cùng đồn trú ở đây. Ngôi nhà gỗ một tầng của viên sĩ quan này và những căn nhà bằng gạch bao quanh chẳng bao lâu sau đã được lịch sử ghi vào là cụm cứ điểm Eliane (đồi A1). Để đấu với Việt Minh, quân đội Pháp rõ ràng có ý định về một trận đánh dàn quân trên một khu đất phẳng, cùng với những chiếc xe tăng có hỏa lực mạnh nhất.

Phía Việt Nam sẽ phải đưa quân đội và quân nhu vào Điện Biên Phủ với cùng khoảng cách, nhưng bằng đường bộ. Tướng Võ Nguyên Giáp có kế hoạch triển khai 50.000 nam và nữ quân nhân tham gia chiến đấu và 20.000 dân công hỏa tuyến ở mọi lứa tuổi tham gia tiếp tế. Để đến được Điện Biên Phủ, Việt Minh sẽ phải xây dựng những con đường mới và cầu phao, và chuyến hành quân đặc biệt này sẽ phải mất ít nhất 2 tuần bằng cả đi bộ, đi xe đạp hoặc bằng thuyền nhỏ. Tướng Giáp sẽ đi bằng ngựa, nhưng quân của ông có thể đã thu được một chiếc xe jeep chiến lợi phẩm của quân địch trên đường đi, giúp ông giảm thời gian đi lại.

Tháng 11/1953, với sức mạnh không quân, Pháp đã tiến hành “Chiến dịch Hải Ly”, thả 9.000 quân xuống khu vực này chỉ trong 3 ngày. Pháp bắt đầu lập các cứ điểm giống các pháo đài, và cả những căn cứ. Pháp có kế hoạch triển khai 10.000 lính, nhưng với những động thái tăng quân sau đó, con số này đã lên đến 16.000. Lính Pháp bao gồm các trung đoàn không vận, đội lính lê dương, đội xạ thủ châu Phi, binh đoàn thuộc địa người Việt, và số lính đánh thuê người Thái, Lào, và Mường.

Tướng Henri Navarre đã quyết định ăn mừng ngày Giáng sinh với các binh lính của ông ta ở Điện Biên Phủ để tăng nhuệ khí. Đại tá Christian de Castries được chỉ thị tổ chức bữa tiệc trong một căn lều lớn dựng bên ngoài trụ sở đầu não, với sự hỗ trợ của nữ thư ký riêng Paule Bourgeade. Lớn tiếng trước các binh lính trong những bộ quân phục rằn ri, Navarre đảm bảo với họ về chiến thắng. Navarre có nói về Võ Nguyên Giáp. Ông ta không tin vào khả năng lãnh đạo quân đội của Tướng Giáp, nói rằng ông Giáp thực ra là một thày giáo dạy sử, có bằng luật và chưa bao giờ kinh qua một trường đào tạo quân sự nào.

Chính cụ Hồ Chí Minh là người đã tiến cử ông Giáp tham gia huấn luyện quân đội trong rừng năm 1940, sau khi diễn ra cuộc nổi dậy Nam Kỳ Khởi Nghĩa do bà Nguyễn Thị Bảy (Pháp gọi là “nữ hoàng Đỏ”) đứng đầu. Ở thời điểm đó, cả hai đang ẩn náu gần khu vực biên giới Việt-TrungÔng Giáp sau đó đã nói với cụ Hồ Chí Minh rằng bàn tay ông là để cầm bút chứ không phải cầm gươm. Hai người đã sẻ chia những kinh nghiệm trong một thập kỷ nữa ở rừng. Trong trận đánh Điện Biên Phủ, cụ Hồ đã chọn ông Giáp làm tư lệnh lực lượng Việt Minh.

Mùa Đông năm 1953, Richard Nixon, khi đó là Phó Tổng thống Mỹ, đã bí mật thăm Hà Nội. Ông ta có đến sông Hồng, quan sát một trận đánh ở Ninh Binh và lắng nghe kế hoạch chi tiết do Navarre trình bày. Kế hoạch này đã được “thiết kế” cẩn thận với sự tham vấn của Thủ tướng Pháp Joseph Laniel và Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles. Kế hoạch này cũng đã nhận được sự ủng hộ hoàn toàn của gần 20 sĩ quan quân đội cấp cao Mỹ và Pháp. Đại tá Christian de Castries, một sĩ quan kỵ binh bảnh bao với lý lịch tham chiến ấn tượng trong Chiến tranh Thế giới Thứ II, được chỉ định là Tư lệnh tại Điện Biên Phủ.

Khi cụ Hồ Chí Minh biết tin về quyết định của Pháp chọn Điện Biên Phủ để tiến hành trận chiến quyết định, ông lột ngay chiếc mũ trên đầu và ném lên bàn. Chỉ thẳng vào chiếc mũ đang lật ngửa – ví như một thung lũng sâu và rộng, cụ nói với ông Giáp: “Quân Pháp sẽ bị chôn sống ở đây”.

2. Những đường hầm và giao thông hào

Khi Pháp bắt đầu đổ quân xuống Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp biết rằng chỉ cần ông cung cấp đủ pháo cho quân mình, lính Pháp có thể bị kết liễu ở đây. Do Pháp phụ thuộc nặng nề vào hoạt động hỗ trợ đường không, lính Pháp đang ở thế bất lợi nghiêm trọng.

Ngược lại với một thung lũng không gì che chắn, nơi mà Pháp hy vọng thực hiện một cuộc chiến thông thường, những vùng núi và rừng xung quanh rất lý tưởng cho Việt Minh che giấu vũ khí. Thách thức lớn nhất với Việt Minh là làm thế nào để tay không chuyển những khẩu pháo nặng lên đỉnh đồi, qua những vạt rừng mênh mông, qua những dãy núi và đến được những địa điểm đã được ngụy trang trên những quả đồi bao vây quanh quân Pháp. Quân Việt Nam đã hành động bí mật và gần như cả đêm. Nhưng băng giá sẽ đổ xuống thung lũng khi hoàng hôn xuống, đặt ra một thách thức nữa.

Vì những đường mòn rất hẹp, chỉ cần bánh xe trệch hướng một chút, pháo sẽ rơi xuống khe núi sâu. Họ đã mở một đường mòn mới, ở những vũng lầy sâu đến mắt cá chân. Với nỗ lực phi thường, kiên nhẫn và thầm lặng, họ đã xây dựng lại những đường mòn và sau nhiều tuần, đã kéo pháo vào vị trí chiến đấu. Để lên dốc, hàng trăm phụ nữ và nam giới đã gồng mình, kéo những khẩu pháo nặng bằng dây thừng dài, từng chút từng chút một. Cả đêm, họ có thể kéo được pháo đi từ 500 đến 1.000m. Mỗi lần Pháp nghi ngờ có động tĩnh, chúng lại cho máy bay dội bom. Những đường giao thông lại bị phá hủy. Nhiều người đã chết dưới làn bom đạn này.

Lúc này, dưới sự kinh ngạc của kẻ thù và cả một sự hy sinh lớn của người mình, quân Việt Nam đã đưa được tất cả pháo vào những vị trí trên đỉnh đồi bên phải, bao vây quân Pháp cùng những bãi đáp máy bay mà Pháp hoàn toàn phụ thuộc.

Tướng Giáp đã liên lạc với chỉ huy các tiểu đoàn từ một sở chỉ huy rất đơn sơ ở khu rừng gần đó. Ông làm việc và sống bên trong căn lều nhỏ ở dưới chân một quả đồi. Căn lều chỉ được trang bị một cái bàn gỗ, 2 chiếc ghế mây và một chiếc giường đệm cỏ khô. Hầu như tất cả thời gian ông có mặt trên lều và chỉ xuống hầm khi có không kích.

Trong khi đó, lực lượng Pháp dưới thung lũng có một phân khu trung tâm, xung quanh là 8 cụm cứ điểm chính được lấy theo tên các tình nhân của Đại tá Castrie (gồm Gabrielle, Beatrice, Anne-Marie, Huguette, Claudine, Eliane, Dominique và Isabelle) cùng 49 cứ điểm phòng thủ. Phân khu trung tâm Điện Biên Phủ gồm 5 quả đồi có rừng bao phủ và phía dưới là cánh đồng Mường Thanh hình trái tim.

Cái khó cho phía Việt Nam là làm thế nào để tấn công phân khu trung tâm và cứ điểm phía Nam qua một đồng bằng trống không trong tầm đạn pháo hạng nặng và được bảo vệ bằng xe tăng. Họ chỉ có thể thành công bằng cách sử dụng đường hầm và giao thông hào. Việc đào hầm và hào đã được bắt đầu trong những tháng mùa Đông, chủ yếu là vào ban đêm. Có một nữ dân công tham gia công việc này đã kể lại sự hy sinh của họ bằng những vần thơ miêu tả công việc đào hầm trong đêm tối. Giữa cái lạnh cắt da thịt, họ làm việc miệt mài, không mệt mỏi, chỉ có tiếng cuốc bổ và đất rơi, nhưng đầy quyết tâm mà không mất đi một tâm hồn lãng mạn.

Trận chiến vĩ đại khai mào vào ngày 13/3/1954. Vài ngày trước đó, Đại tá de Castries đề nghị tăng thêm 3 tiểu đoàn. Nhưng ông ta không biết rằng Việt Minh đã hoàn thành đáng kể hệ thống đường hầm, và pháo hỏa lực mạnh của họ giờ đã bao vây thung lũng cùng bãi đáp máy bay của Pháp. Phía Việt Nam bắt đầu cuộc tấn công quyết định vào chiều cùng ngày, thời điểm đủ muộn để khiến Pháp không thể cầu viện hàng không trước khi trời tối.

Trung tướng Rene Cogny, một chỉ huy ba hoa của Navarre ở Hà Nội, đã để lộ một số bí mật quân sự cho báo giới ở Paris, trong đó có cả việc Pháp đã biết những nhất cử nhất động của quân Việt Minh. Ngay sau khi biết tin này, Tướng Giáp đã đổi mật mã tín hiệu và một số chiến lược quân sự.

Sáng 12/3, Cogny đến thăm Điện Biên Phủ lần cuối để đánh giá công tác chuẩn bị. Ông ta nhìn thấy rất nhiều đường giao thông hào trước vị trí của Pháp. Đứng trên một ngọn đồi, Cogny chứng kiến cuộc đột kích của Pháp vào những đường hào của Việt Minh và thu giữ một số vũ khí. Nhưng cuộc chiến này không phải là về những con hào. Nó là cuộc chiến của những đường hầm, pháo hạng nặng, và sự cô lập của quân ngoại bang ở đất nước của người Việt Nam.

Tiếp nối “truyền thống” của quân đội Pháp, một nhà chứa cơ động Pháp đã được triển khai đến Điện Biên Phủ 2 tháng trước đó. Gái điếm được đưa về các trại và đặt dưới sự chăm sóc của các sĩ quan quân y trong quân đoàn lê dương Pháp. Những lính Pháp phấn kích đã tình nguyện đứng ra xây dựng một khu nhà cho số gái điếm này ở. Nhưng chiến tranh tàn nhẫn và rất ít binh sĩ Pháp trong các đơn vị chiến đấu có cơ hội thư giãn ở đây.

3. Chiến dịch Điện Biên Phủ

Đó là một buổi sáng Thứ Bảy, ngày13/3. Trời nhiều mây, không khí lạnh và ẩm ướt. Toàn bộ khu rừng phủ một sắc xanh yên bình. Có thể nhìn thấy cả những con khỉ đang vắt vẻo trên những nhánh cây lẩn khuất trong sương mù. Trên những tán cây phủ kín các con dốc chạy vòng vèo quanh sườn đồi, chim núi líu lo hót.

Một tiếng nổ đột ngột xé toang sự yên tĩnh của thung lũng, khiến lũ thú rừng chạy tan tác.

Bằng trọng pháo được bố trí từ trên những đỉnh đồi cao, Việt Minh bắt đầu nã xuống sân bay Mường Thanh. Đến giữa trưa, 3 chiếc máy bay đã bốc cháy còn những chiếc khác cùng chung số phận bị hư hỏng nặng. Đối với quân Pháp, điều thậm chí còn nghiêm trọng hơn là đường băng – đường sinh mệnh của lực lượng này – đã bị tàn phá. Một đại đội và 2 xe tăng Pháp đã bắn trả, trong khi Việt Minh tiếp tục các cuộc tấn công nhằm vào những bãi đáp của máy bay và cụm cứ điểm Beatrice gần bản Him Lam ở phía Bắc.

Lúc 1 giờ rưỡi chiều, bây giờ là dưới cái nắng chói chang của bầu trời xanh với những gợn mây trắng, các đợt bắn phá nhằm vào cụm cứ điểm Him Lam ngày càng tăng về khối lượng và tiếp diễn trong 2 giờ đồng hồ không nghỉ. Viên đại tá Pháp chỉ huy cứ điểm này và người phó đã bị giết vì pháo dội đúng boongke hai người này trú ẩn. Nhân viên liên lạc Pháp cố cầu viện sự hỗ trợ của trọng pháo, nhưng đường dây liên lạc đã tê liệt. Khốn khổ với những rắc rối của hệ thống cung cấp nhiên liệu từ đêm trước đó, các lính Pháp giờ đây không thể phản ứng lại cuộc tấn công quy mô cực kỳ lớn này.

Lúc 5 giờ 30 phút, mọi quả đồi dường như nổi hẳn lên giữa chân trời phủ một màu vàng cam. Cũng bất ngờ như lúc trước, cả sườn đồi Him Lam ngập tràn lính Việt Minh trong bộ quân phục màu xanh lá cây và những chiếc mũ kết bằng lá dừa. Mỗi một phụ nữ và nam giới cầm một khẩu súng trường có gắn lưỡi lê cố định. Lặng lẽ, họ nhô lên từ những giao thông hào lượn quanh chân đồi. Choáng váng trước cảnh tượng này, lính Pháp cố gắng tấn công lại bằng trọng pháo, nhưng đã quá muộn. Quân Việt Minh đông hơn và cứ điểm đã bị chiếm – một cảnh tượng khiến phía Pháp sửng sốt đến mức quân Pháp mất hết tinh thần.

Lúc 7 giờ rưỡi tối, khi bóng đêm đổ xuống, Việt Minh đã bắn pháo trúng các kho nhiên liệu và bom napan của Pháp. Những cột lửa vàng nhanh chóng bốc cao và thắp sáng rực cả bầu trời. Đám cháy lớn kéo dài suốt đêm đó.

Đến 10 rưỡi đêm, nhiệt độ đã giảm mang theo sương giá. Trong đêm tối, trọng pháo nhằm hướng các cụm cứ điểm của Pháp, cày xới mặt đất, đánh sập các hầm trú ẩn, san bằng hào giao thông, phá hỏng các loại vũ khí, tiêu diệt và làm bị thương nhiều lính Pháp. Những âm thanh inh tai nhức óc hòa cùng bụi đỏ và khói thuốc gây cay. Bên trong các hầm chỉ huy, mặt đất dường như đang chao đảo dữ dội. Những boongke rung lắc và di chuyển tới lui, đồ đạc va vào nhau, rơi xuống đất, và người dẫm đạp lên nhau.

Trong trại trung tâm, một viên trung tá đang tắm thì đạn pháo rơi xuống ngay bên cạnh. Anh ta trần truồng chạy vào hầm của mình để điện thoại cho các chỉ huy tiểu đoàn nhưng đường dây đã bị cắt. Toàn bộ lính Pháp khiếp đảm cực độ trước sức mạnh kinh hoàng từ pháo của Việt Minh và các vị trí bắn pháo của họ. Mà đây mới chỉ là ngày đầu tiên của cuộc chiến.

Nửa đêm, pháo ngừng bắn. Đại tá Mac Ninh, giờ là chỉ huy ở cụm cứ điểm Him Lam, gửi thông điệp cho đại tá de Castries:

“Theo lệnh từ chỉ huy của chúng tôi, tôi thông báo với ông rằng lúc 8 giờ sáng mai, ông và những người của ông được phép đưa một trung đội không vũ trang và các máy bay cứu thương đến thu nhặt những người bị thương. Phải có người cầm cờ trắng trước khi tiến vào Him Lam (Beatrice)”.

Đại tá de Castries đối mặt với cơn khủng hoảng với rất ít sự trợ giúp từ các chỉ huy. Trung tá Keller, Tham mưu trưởng, bị suy nhược thần kinh và ẩn náu dưới căn hầm trú ẩn sâu nhất, đầu đội mũ sắt. Đại tá Piroth suy sụp nặng, trao toàn quyền chỉ huy lực lượng pháo binh cho người phó của ông ta. Trung tá Langlais, Chỉ huy chiến dịch, luống cuống và gần như hóa điên. Thậm chí cô thư ký riêng là Bourgeade cũng đã bị thương nặng.

Sáng 14/3, khi mặt trời lên.

Trại trung tâm tĩnh lặng và bao trùm cảm giác lạnh lẽo. Những binh sĩ Pháp nhìn chằm chằm vào đống hoang tàn do bom mìn cày phá. Toàn bộ mặt đất lỗ chỗ những hố sâu. Phương tiện đi lại bị phá hỏng, những bao cát vỡ văng tung tóe, những hộp đạn pháo, những bàn ghế, đèn, hộp, can, vỏ đồ hộp… lăn lóc khắp nơi. Không khí đặc quánh mùi của xăng và than cháy. Một nhóm lính lê dương đang thu nhặt những xác chết trước khi chuyển vào nhà xác ngay đằng sau bệnh viện dã chiến. Nhà xác là một hầm trú ẩn sơ sài, chất đầy những chiếc ván quan tài. Giờ nó chất đầy xác chết đặt la liệt dưới nền đất trơ trụi. Nhiều người bị thương nằm trên cáng, chờ đợi.

Cha tuyên úy Trinquant của Đội quân lê dương cùng một sĩ quan quân y và 3 xe vận chuyển treo cờ Chữ thập Đỏ đi nhặt những xác của lính lê dương nằm quanh các căn cứ. Việt Minh đã chuyển người của họ đi trong buổi tối.

Thiếu tá bác sĩ Paul Grauwin đã yêu cầu một máy bay đặc biệt chở một số người bị thương nặng và cô Bourgeade ra khỏi Điện Biên Phủ để điều trị. Chính đại tá de Castries đã gửi vội cô thư ký của ông lên máy bay cho dù cô này không đồng ý.

Sáng sớm 15/3, Việt Minh đã hoàn toàn kiểm soát một cứ điểm khác – Gabrielle (đồi Độc lập) ở phía Bắc. Một số chỉ huy Pháp có dấu hiệu rối loạn và suy sụp. Giữa đêm, đại tá Piroth đã tự tử bằng lựu đạn.

Không thể chuyển những người chết đến nghĩa trang đã được chuẩn bị sẵn, ngày 18/3, đại tá de Castries đã lệnh rằng những người bị chết khi làm nhiệm vụ sẽ được chôn ngay tại chiến trường, trong một hố chôn tập thể, bằng máy ủi.

Trong cuộc điện đàm qua radio với Trung tướng Cogny ngày 19/3, đại tá de Castries thông báo với ông này rằng cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm) ở phía Nam lòng chảo sẽ bị Việt Minh chiếm giữ bất kỳ lúc nào. 5 ngày sau đó, Trung tá Keller đã được lặng lẽ đưa khỏi Điện Biên Phủ, trên một chuyến bay cứu thương.

Khi cơn khủng hoảng của Pháp nghiêm trọng hơn, Chính phủ Mỹ mới khẩn cấp trợ giúp. Ngày 24/3, trong “Chiến dịch Chim kền kền”, lính Mỹ đã được triển khai cùng 60 máy bay B-29 từ căn cứ Không quân Viễn Đông ở Philippines. Chúng bắt đầu dội bom vào các tuyến đường tiếp tế của Việt Minh dẫn đến Điện Biên Phủ.

Trong 3 ngày đêm liên tục, lực lượng phối hợp của Pháp và Mỹ đã tiến hành 750 cuộc không kích dữ dội vào khu vực của Việt Minh, giết hại hàng nghìn người – gồm cả phụ nữ, trẻ em và người lớn tuổi tham gia công tác hậu cần bằng xe thồ.

4. Con voi giẫy chết

Bất chấp những tổn thất nặng nề sau các cuộc không kích, sáng sớm 30/3, Việt Minh bắt đầu đợt tổng công kích thứ hai với một loạt cuộc tấn công nhằm vào phân khu trung tâm Điện Biên Phủ – cuộc chiến trên 5 quả đồi. Cứ điểmDominique bên bờ trái dòng Nậm Rốn nhanh chóng thất thủ. Một số đồn bốt trên những quả đồi bên phía Đông của lòng chảo Điện Biên cũng rơi vào tay Việt Minh. Hai đại đội Pháp bảo vệ Dominique đã kiệt sức đến mức lính phải cố trốn sang bên kia con dốc để tìm nơi ẩn náu ở các vị trí còn có vẻ trụ được hơn ở phía dưới. Họ bị coi là những những kẻ đào tẩu, chỉ huy của căn cứ phía dưới không chứa chấp, và sau đó những binh sĩ này đã bị hỏa lực của Việt Minh tiêu diệt.

Tại bệnh viện dã chiến, mỗi ngày, bác sĩ Grauwin tiếp nhận 750 binh sĩ bị thương nặng và trong 3 ngày đêm liên tục, ông cùng các bác sĩ khác không ngơi tay phẫu thuật.

Máy bay được ưu tiên để chuyển một lượng lớn máu và huyết tương cũng như các thiết bị thay thế cho các máy chụp X quang. Tuy nhiên, do những vấn đề như bảo quản lạnh và do hàng bị hỏng khi thả dù, những nhu cầu khẩn cấp này không thể được đáp ứng.

Ngày 30/3, Tướng Navarre đặt chân đến Hà Nội để đánh giá tình hình. Gió mùa bắt đầu về và thung lũng biến thành một vùng sình lầy. Các phương tiện cấp cứu giờ đây gặp phải những khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với bệnh viện của bác sĩ Grauwin để cấp cứu các trường hợp khẩn cấp.

Tuần đầu tiên của tháng 4, quân đội Pháp biết các đường dây liên lạc trên chiến trường đã dần bị cắt hết. Nhiều nơi không thể nhận được lệnh, cảnh báo hay thông tin từ cấp trên. Họ rơi vào hoảng loạn. Việt Minh đã kiểm soát thêm nhiều cứ điểm và căn cứ. Họ tiếp tục các cuộc tấn công vào những bãi đáp của máy bay, và từ ngày 27/3, những bãi đáp này trở nên vô dụng. Nỗ lực cuối cùng của Pháp vận chuyển những người bị thương khỏi Điện Biên Phủ là vào sáng 28/3. Sáng đó, sau khi bốc 25 trường hợp bị thương nặng, nhân viên kỹ thuật phát hiện máy bay bị hỏng. Một sĩ quan chỉ huy ở Hà Nội gửi điện qua radio rằng ông ta sẽ bay đến để đón phi hành đoàn vào tối hôm sau. Nhưng lời hứa này đã không thể thực hiện.

Việt Minh đã tiêu diệt tổng cộng 62 máy bay của Pháp và Mỹ tại Điện Biên Phủ. Trung tuần tháng 4, Việt Minh giành chiến thắng hoàn toàn và gọi những gì còn lại của cuộc đối đầu là “con voi đang chảy máu và chết dần”. Giữa các đợt pháo yểm hộ, loa của Việt Minh bắt đầu phát thông điệp cho quân Pháp dọc thung lũng, thuyết phục quân của tướng de Castries đầu hàng.

Nhìn thấy rõ thất bại của Pháp, ngày 14/4, John Foster Dulles đã trình các lãnh đạo trong Quốc hội đề xuất của ông dùng vũ khí nguyên tử tiêu diệt Việt Minh tại Điện Biên Phủ. Đề xuất này đã được thảo luận nghiêm túc, nhưng Lyndon Johnson, thủ lĩnh phe đa số trong Thượng viện Mỹ, lập luận rằng vũ khí này sẽ quét sạch quân đội của cả hai phe. Vì không thể tính được bao nhiêu đơn vị lính Pháp có thể sống sót trong một cuộc tấn công bằng bom nguyên tử, kế hoạch này đã bị hủy bỏ.

Đại tá Christian de Castries đã được thăng lên cấp Chuẩn tướng ngày 16/4. Một số chỉ huy khác trên chiến trường này, trong đó có Trung tá Langlais, cũng được thăng chức. Có lẽ đó là một quyết định chính trị. Trong nhiều tuần, báo chí Paris đã ca ngợi binh sĩ Pháp vì hàng rào phòng thủ anh hùng ở thuộc địa Viễn Đông của Pháp, trong khi dư luận Pháp dõi theo mọi động thái ở Điện Biên Phủ với nỗi kinh sợ.

Sân bay ở Mường Thanh bị vô hiệu hóa, Pháp phải dùng dù thả quân vào ban đêm còn thực phẩm và đạn dược vào ban ngày. Tuy nhiên, Pháp không thể duy trì được các hoạt động tiếp tế. Gió mạnh khiến nhiều dù thả đồ tiếp tế bay sang trận địa bao vây do phía Việt Nam kiểm soát. Quân Việt Minh cũng dùng súng phòng không bắn hạ những dù này.

Vấn đề chính là việc cung cấp dù. Pháp không lường trước được rằng họ cần tới 1.000 dù mỗi ngày – và mỗi chiếc chỉ dùng được một lần. Phía Pháp hết dù cho quân tiếp viện vào ngày 27/3. Nhóm Cố vấn Hỗ trợ Quân sự Mỹ (MAAG) ở Sài Gòn do Trung tướng O’ Daniel cầm đầu đã phải khẩn trương tổ chức không vận 60.000 chiếc dù đến Điện Biên Phủ từ các căn cứ ở Nhật Bản và Philippines, để đáp ứng yêu cầu của Pháp.

Ngày 1/5,Việt Minh phát động cuộc tổng tấn công thứ ba với một loạt cuộc tấn công dữ dội, và một cuộc tấn công ồ ạt bằng pháo nhằm vào các căn cứ ở phía Nam và phía Đông. Họ đã chiếm giữ được cụm cứ điểm phía Đông, Eliane, trước đó là dưới sự chỉ huy trực tiếp của tướng de Castries. Qua đường radio, Đại tá Langlais yêu cầu Đại tá Sauvagnac khẩn trương tăng viện một đại đội lính dù. Ông ta hy vọng chiếm lại được quả đồi phía Đông và bảo vệ được phân khu trung tâm. Nhưng Sauvagnac đáp lại là không thể đáp ứng được yêu cầu này. Đại tá Langlais hét lên tức giận và tuyệt vọng: “Chúng tôi vẫn sẽ thắng trận này mà không cần ông và bất cần ông. Đây là thông điệp cuối cùng của tôi và tôi sẽ không bao giờ nói với ông nữa”.

Ngày sau đó, tướng de Castries nhận được tin xác nhận là có 450 lính dù được tiếp viện. Số lính này sẽ đến vào ngày 7/5, trực tiếp từ hai trường huấn luyện lính dù ở Pháp.

Chiều cùng ngày, dưới trời mưa nặng hạt, Việt Minh đánh phá cụm cứ điểm Isabelle (ở Hồng Cúm). Quân Pháp đóng tại Isabelle chỉ còn lại 6 trên tổng số 11 khẩu pháo là có thể bắn trả lại. Mưa tiếp tục như trút và nguồn cung cấp từ máy bay bị chặn. Khẩu phần đồ hộp chỉ còn đủ trong 3 ngày. Lính Pháp đối mặt với nguy cơ đói khát.

5. Những đầm lầy dưới chân đồi đặc khói thuốc

Ngày 3/5, Cogny đề nghị với De Castries một cuộc hành binh phá vây mang bí danh Albatros (Hải âu lớn), khi đa số các chỉ huy Pháp đã không còn nhuệ khí chiến đấu. Tuy nhiên, De Castries đã từ chối. Ông ta quyết định ở lại đến cùng với những binh sĩ bị thương vì cho rằng, danh dự quân đội chính là việc cứu sống được bao nhiêu mạng lính và giảm thiểu thương vong cho họ.

Ngoài vật lộn với con số thương vong lớn, De Castries còn phải đối phó với tâm lý thất vọng cực độ khi thiếu đạn dược, lương thực và thuốc men cần thiết. Đau đầu khi những hoạt động tiếp tế của lực lượng lính dù không ổn định, viên chỉ huy này cũng gặp những vấn đề nghiêm trọng với chính quyền Pháp. Chiều mưa ngày 4/5, khi cứ điểm Huguette đang hứng chịu những đợt dội pháo hạng nặng của lực lượng Việt Minh, De Castries đã gửi bức thư tuyệt vọng cho sở chỉ huy của Pháp ở Hà Nội:

Chúng tôi không có đủ đạn dược để chặn các cuộc tấn công hay các đợt bắn phá liên miên của Việt Minh. Dường như không có nỗ lực nào giúp chúng tôi khắc phục tình thế. Tôi đã báo cáo về nguy cơ đối với đội bay, nhưng binh lính của chúng tôi ở đây còn phải chịu vô vàn những hiểm nguy khủng khiếp hơn nhiều – không thể có kiểu đối xử khắt khe với người này nhưng rộng rãi với người kia được. Việc thả dù đồ tiếp viện vào ban đêm phải bắt đầu lúc 8 giờ tối thay vì lúc 11 giờ. Thời gian buổi sáng đã không thể làm được gì vì sương mù và do kế hoạch thả đồ tiếp viện trong khoảng thời gian cách nhau dài giữa các máy bay. Tôi rất cần các hoạt động tiếp viện với số lượng lớn.

…Tôi không thể hy vọng lấy lại được thậm chí là chỉ một nửa số đồ được thả xuống, mặc dù số lượng đồ được gửi đến cho tôi chỉ là một phần rất nhỏ những gì tôi yêu cầu. Tôi không có gì để duy trì tinh thần những binh sĩ của mình – những người được yêu cầu phải có nỗ lực phi thường. Tôi không dám đi gặp họ với hai bàn tay không.

Giông tố lại càng khiến cảnh khốn khổ trong tuần cuối cùng thêm thê lương. Hiệu ứng tích lũy của những đợt bắn phá và lũ lụt đã khiến chiến trường như một đầm lầy, đầy rác rưởi và xác chết. Kẻ thù mới của quân Pháp – bùn lầy – giờ đã ngập đến đầu gối.

Nhiều vợ của binh lính Pháp có mặt tại Điện Biên Phủ. Một phụ nữ hạ sinh con gái vào ngày 4/5, trong một boongke ở cụm cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm) mà Pháp vừa tạm thời chiếm lại. Người chồng của sản phụ, Đại úy Desire, nằm bên cạnh với la liệt những binh sĩ bị thương. Đứa trẻ này sau đó được đặt tên giống một trong những cứ điểm và được Cha Tissot rửa tội. Bên ngoài boongke, mưa tiếp tục như trút. Trời chuyển giông lớn ngày sau đó. Tối đó, 32 lính Pháp tuần tra bên ngoài cứ điểm Hồng Cúm, về phía tây. Tất cả đã bị Việt Minh tiêu diệt.

Hai tổ lái C-119 của Mỹ, do James McGovern chỉ huy, đã tình nguyện bay tầm thấp để thả đạn dược xuống Hồng Cúm. Sáng 6/5, bầu trời trong xanh ấm áp, hai chiếc C-119 đến Điện Biên Phủ. Bộ đội Việt Nam sẵn sàng bắn hạ bằng súng phòng không. Máy bay đầu tiên do phi công Art Wilson lái bị bắn trúng đuôi. Wilson mất kiểm soát nhưng vẫn trốn thoát và hạ cánh được xuống sân bay Cát Bi. Máy bay của McGovern bị bắn trúng động cơ và đuôi. Cả McGovern và lái phụ thiệt mạng vì chính lượng đạn dược mà chúng chở trên máy bay.

Trận quan trọng với Tướng Giáp trong những ngày cuối cùng này là cuộc tấn công vào cứ điểm gần bờ trái Sông Nậm Rốn có nhiệm vụ bảo vệ cứ điểm chỉ huy trung tâm. Trong số 49 cứ điểm phòng thủ, đây là một cứ điểm mà Pháp gọi là “cổ họng Điện Biên Phủ” – cũng là nơi Pháp gánh tổn thất lớn. Tướng Giáp phát hiện rằng quân Pháp vào quả đồi này qua một pháo đài được xây dựng nhiều năm trước đây. Trong 16 ngày, lực lượng công binh của Việt Minh đã đào một hầm ngầm tới quả đồi. Đến được cứ điểm này lúc 8 giờ 30 phút ngày 6/5, họ đã cho nổ 1 tấn thuốc hất tung hệ thống hầm ngầm cuối cùng. Vụ nổ này lớn hơn và mạnh hơn bất kỳ vụ nào trước đó. Trước nửa đêm, Việt Minh đã chiếm hoàn toàn quyền kiểm soát cứ điểm này. Quân tiếp viện Việt Minh từ các chiến hào bắt đầu ào lên dọc các sườn dốc, tràn lên quả đồi cuối cùng.

Sáng Thứ Sáu, ngày 7/5, quân đội Việt Minh vẫy cờ đỏ sao vàng trên hầm chỉ huy của Tướng De Castries. Đến chiều, đại tá Langlais xuống hầm trú ẩn và đốt chiếc mũ của lính dù mà ông ta đang đội. Ông ta đã đổi chiếc mũ này của một lính bộ binh. Trong khi đó, Tướng De Castries điện thoại cho vợ ở Paris chỉ với một thông điệp ngắn: “Đừng lo. Anh đã bị bắt làm tù binh. Chúng ta sẽ gặp lại nhau”. Tuy nhiên, Cogny nói với De Castries qua đường truyền radio từ Hà Nội và chỉ thị ông ta không được đầu hàng.

“Ông bạn già, giờ đây phải kết thúc thôi, nhưng không phải bằng cách đầu hàng. Chúng ta không được phép làm như vậy. Không được kéo cờ trắng, không được đầu hàng. Đừng làm những hành động đáng xấu hổ”.

“Được, Tướng quân. Ước muốn của tôi là bảo vệ những binh sĩ bị thương”, De Castries trả lời, trong nước mắt.

Cogny tiếp tục: “Tôi không có quyền cho phép ông đầu hàng. Hãy làm những gì tốt nhất. Nhưng cuộc chiến không được kết thúc với một chiếc cờ trắng. Ông hiểu không, ông bạn già”.

“Được, thưa Tướng quân”.

Từ chiều đến tối ngày 7/5, hơn 10.000 binh sĩ đói lả, trong những bộ quần áo tả tơi và giày mục nát, chầm chậm nhô lên từ thung lũng sâu. Việt Minh yêu cầu chuyển họ đến các trại tù binh cách đó vài trăm km. Nhiều người không thể. Họ quá yếu. Hầu hết những người sống sót đều bị mất phương hướng do sống trong bom đạn quá lâu.

Trận Điện Biên Phủ không chỉ là biểu tượng báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương, mà còn chấm dứt nhiều thế kỷ chủ nghĩa thực dân châu Âu thống trị cả thế giới.

Theo DÂN TRÍ

Tags: ,