Hình tượng loài rắn trong tôn giáo và tín ngưỡng của con người

Các loài vật đã đi vào đời sống văn hóa của nhân loại bằng nhiều cách thức và sự biểu hiện khác nhau. Mỗi loài đều mang những ý nghĩa biểu trưng nhất định và tiêu biểu cho văn hóa, tín ngưỡng, tập tục, lối sống hay đặc tính của một dân tộc, vùng miền. Nhưng, có lẽ, không có loài vật nào mà ý nghĩa biểu trưng phong phú như loài rắn.

Hình tượng loài rắn trong tôn giáo và tín ngưỡng của con người

Hình tượng rắn không chỉ xuất hiện trong hầu hết các nền văn hóa mà còn mang nhiều ý nghĩa khác nhau, đôi khi đối lập nhau. Rắn biểu trưng cho cả giới tính nam và nữ; là một vị thần sáng thế, biểu trưng cho vũ trụ thời hỗn mang nhưng đôi khi lại là một thành viên hay vị thần bảo hộ của gia đình, là nguồn nước và cũng là lửa, là vị phúc thần và ác thần, điều tốt và cái xấu, tượng trưng cho sự sống bất tử và cái chết, dương thế và âm ty, sự hủy diệt và tái sinh, tình yêu, nhục dục và tội lỗi…

1. Tục thờ rắn của một số nơi trên thế giới

Ở châu Úc, các thổ dân tôn sùng và thờ rắn khổng lồ, con rắn này được gọi bằng nhiều tên, song phổ biến hơn cả là serpent rainbow – rắn cầu vồng. Sự đồng nhất hình tượng cầu vồng với rắn xuất phát từ quan niệm liên quan đến nước và đời sống nông nghiệp. Con “rắn cầu vồng tượng trưng cho nước, là thực thể tâm linh lâu đời nhất của người dân bản địa. Là nhân vật cổ xưa được hoan nghênh nhất, thần rắn với sự hiện diện mơ hồ của mình được cảm thấy tất cả các hồ nước và dòng sông, mà ông vừa là nhà sáng tạo vừa là nhà dám hộ”(1). Vùng bắc Australia, hình tượng rắn ngũ sắc lại được gắn với các nghi lễ trưởng thành. Melentinsky cho biết, trong nghi lễ trưởng thành, người ta dựng lại hình thức chị em Vauvaluk (tổ tiên của bộ tộc Dua) với một người bị rắn ngũ sắc nuốt, sau đó rắn khạc ra đứa trẻ – tượng trưng cho cái chết tạm thời của người lên bậc trưởng thành. Tính chất của rắn ngũ sắc không chỉ là quái vật nuốt người, mà “rắn ngũ sắc này là tập hợp trong mình những biểu tượng về thủy thần, về quái vật – rắn (mầm mống của biểu tượng về con rồng)”(2).

Ở châu Phi, hình tượng rắn được thờ phụng ở rất nhiều quốc gia, dưới nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Tại Congo, “uy lực tối cao của trời là con rắn Điămbô, không ai có thể ngồi lên lưng nó được. Ai trèo lên là lại tụt xuống thấp ngay”(3). Người Ngbandi phía bắc Congo cũng tin rằng rắn là con vật lâu đời nhất, là tổ tiên sáng tạo. Họ thờ rắn như thờ vị thần tối cao của dân tộc.

Tại Whydah người ta đã tìm thấy những ngôi đền thờ rắn, được mô tả chỉ là “một túp lều đất sét hình trụ có mái che bằng tranh, dài, hẹp, lối vào cửa phải đối diện với nhau. Căn nhà được quét vôi trắng bên trong và ngoài. Cửa ra vào được cắm các cờ trang trí nhỏ vải bông màu đỏ, trắng, xanh. Ngoài trăn thì cá sấu là đối tượng được giám sát việc thờ cúng ở các địa phương”(4). Người ta xem mãng xà như những vị thần linh thiêng. Nếu ai vô tình giết chúng thì sẽ bị trừng phạt, thậm chí nếu đó là người ngoại quốc sẽ bị chặt đầu. Một số địa phương của Liberia lại gắn rắn với niềm tin về bói toán, tiên tri. Loài bò sát này được giám hộ và không ai dám làm hại nó. Trong nhiều huyện ở miền nam Nigeria, mãng xà là đối tượng đứng đầu của niềm tin về tiên tổ. Được biết đến dưới cái tên Ogidia, nó đại diện cho cuộc chiến tranh bộ lạc. Người dân quan niệm, mỗi con mãng xà có một linh hồn con người bên trong nó. Linh hồn được giải phóng bằng nghi lễ sau cái chết của những loài bò sát. Bất cứ hành vi phạm tội nào chống lại con rắn là một tội phạm đối với tổ tiên.

Tín ngưỡng thờ rắn ở nam Uganda còn liên quan đến tục hiến tế. Người ta tìm thấy một ngôi đền thờ rắn nằm bên bờ hồ Victoria Nyanza, trên bờ của sông Muzini. Ngôi đền hình nón lớn được lợp bằng tranh và cỏ; tầng dưới được trải thảm bằng cỏ ngọt có mùi; tầng trên là nơi thiêng liêng của rắn và người giám hộ nó. Đó phải là một phụ nữ còn trinh tiết. Người ta còn tạo ra một lỗ tròn trên mái nhà để rắn có thể dễ dàng đi đến bờ sông. Phụ nữ Uganda và Tây Phi còn đến bên các đền thờ rắn để cầu nguyện. Khi trẻ em được sinh ra, một số họ thừa nhận đã được thực hiện bởi những con rắn. Như vậy, hình tượng rắn không chỉ liên quan đến nguồn nước mà còn là biểu tượng cho sự thịnh vượng, niềm tin liên quan đến nghề cá, nông nghiệp và cả sự mắn đẻ.

Trong quan niệm của người dân Katsina, Daura và Hausa (vùng cao nguyên ở phía bắc của núi Elgon), rắn liên quan đến chữa bệnh, cầu thai. Đặc biệt, họ xem rắn như vật tổ, nếu ăn thịt con vật thì sẽ bị chết. Rắn có thể tự do vào nhà người dân mà không hề bị giết vì họ tin rằng, giết rắn là giết tổ tiên của mình. Trong trí tưởng tượng của cư dân nhiều bộ tộc ở Tây Phi thời cổ, giới tự nhiên đều có linh hồn. “Đối với họ, rắn tượng trưng cho sự sung túc. Trời mưa vừa tạnh, trên không trung cầu vồng hiện ra và trở thành thần rắn trong trí tưởng tượng của nhân dân”(5).

Trong thế giới tượng của người Nairobi (thủ đô của Kênia) motip các vị thần, những con quỷ rất phổ biến. Một trong những nét đặc sắc của tượng Makonđê là “nhiều tượng mang hình rắn. Ở tượng này rắn ngóc lên từ một thân người. Ở tượng khác, rắn vươn cao trước mặt người như để thôi miên nạn nhân của nó. Ở tượng khác nữa, rắn nằm nhũn trong tay người bắt nó”(6). Bộ tộc da đen ở Nigeria tin rằng, nếu một đứa trẻ bị tâm thần hoặc bị liệt, sau khoảng thời gian bốn năm cho phép mà không có dấu hiệu phục hồi thì bị coi là rắn và bị ném xuống sông. Còn các bộ lạc Kouyou lại dành cho Viper (rắn vipe) một sự kính trọng đặc biệt vì họ cho rằng đây là tổ tiên của các tù trưởng.

Ở một trong những quốc gia cổ xưa nhất được ghi nhận về sự hiện diện của tín ngưỡng thờ rắn Ai Cập, người ta cho rằng, “những con rắn đã nhập vào các tôn giáo Ai Cập như một biểu tượng của thánh thần, của sự mê hoặc, đôi khi nó được tin như một lời sấm, lời tiên tri, thậm chí là một đấng tối cao”(7). Atum là một vị thần nguyên thủy đã được biểu trưng dưới hình thức người rắn… Thời cổ xưa, người Ai Cập cho rằng rắn là thần hộ mạng cho các vị vua chúa, cho nên, mấy nghìn năm về trước, trên các vương miện của các pharaoh Ai Cập đa số đều có chạm trổ hình rắn Naja bằng vàng hay bằng ngọc. Điều này được lý giải là tượng trưng cho nữ thần hiền lành, có khả năng phù hộ cho nhà vua. Trước công nguyên, các sứ giả của các quốc gia ở châu Âu đều tay cầm cây trượng, trên đầu trượng có điêu khắc hình rắn, điều đó có tác dụng như là dấu ấn trong quốc thư của các sứ giả ngoại quốc.

Nhìn chung, người Ai Cập cổ xem rắn là một con vật linh thiêng, một vị thần tối linh. Nó biểu trưng cho sự khôn ngoan, thiêng liêng, cho nguồn năng lượng và sự sáng tạo, sự tái sinh, bất tử, vĩnh cửu. Dấu vết của tín ngưỡng này còn được tìm thấy qua các hình vòng tròn, quả cầu được chạm khắc trên hầu hết các cổng ngôi chùa ở Ai Cập (người Ai Cập quan niệm thế giới như một vòng tròn, con rắn đi xuyên qua tâm theo chiều ngang biểu trưng cho sự giao nhau bởi vũ trụ và đất liền).

Ở châu Âu, tục thờ rắn phổ biến trong các cư dân sống quanh lưu vực những con sông ở Hy Lạp. Tuy nhiên hình tượng rắn có nhiều sự biến đổi, được khoác thêm những dáng vẻ mới: rắn được mang thêm sức mạnh của con bò đực, dạng bò tót, rắn đầu cừu đực…(8). Dấu vết thờ rắn ở Hy Lạp chứa nhiều bí ẩn, đôi khi nó là hóa thân, là hình ảnh đại diện của các vị thần. Người ta cho rằng, thần Apollo lần đầu tiên được thờ ở Delphi dưới biểu tượng rắn. Có lẽ, tín ngưỡng nguyên thủy đã bắt đầu được tôn giáo hóa. Trong tôn giáo của người Hy Lạp, rắn luôn được xem là một biểu tượng thiêng liêng. Rắn không chỉ tượng trưng cho sự khôn ngoan mà còn là biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực về khả năng sinh sản.

Một số nơi như Ba Lan, rắn được thần thánh hóa, được sùng kính và thờ cúng. Mỗi hộ gia đình thường giữ một con rắn trong nhà như là một thần bảo hộ. Ở Epirus, tại khu rừng nhỏ của Apollo, hàng năm diễn ra các lễ hội lớn, những tu nữ trinh tiết khỏa thân mang thực phẩm hiến tế rắn thiêng. Nếu chúng lấy nó một cách dễ dàng, đó được coi là dấu hiệu của một vụ thu hoạch hiệu quả, và khỏe mạnh trong năm, bằng không, các điềm báo ngược lại sẽ dẫn đến những lo âu. Niềm tin này có lẽ bắt nguồn từ các con mãng xà được thờ cúng Delphi.

Tại Bắc Âu, tín ngưỡng thờ rắn liên quan đến việc thờ thần mặt trời. John Bathurst Deane rằng, “hình thức ngưỡng này là kết quả của sự giao thoa giữa những nền văn hóa, trong đó có sự chi phối quan trọng của tín ngưỡng đa thần giáo Hy Lạp và Ai Cập…”(9).

Ở Đan Mạch và một số hòn đảo thuộc Anh quốc, tín ngưỡng thờ rắn gắn với các nghi lễ hiến tế. Người ta thường tổ chức các nghi lễ này tại các gò đất, gần hồ. Các ngôi đền vào dịp này thường được che chắn để tạo không gian thiêng liêng. Người ta sẽ hiến tế các vật cúng cho rắn. Những con rắn đã trở thành biểu tượng của thần thánh, và họ gọi chúng là vua rồng.

Ở châu Mỹ, một số bộ lạc thổ dân tôn kính loài rắn chuông (rattlesnake) như ông vua của loài rắn, những người có khả năng cung cấp nguồn năng lượng gió hoặc gây ra cơn bão lớn. Rắn chuông được thờ trong đền Natchez thờ thần mặt trời và các vị thần của Aztec. nhiều nền văn hóa Trung Mỹ, con rắn đã được coi như là cửa ngõ giao thoa giữa hai thế giới. Người ta tìm thấy các mô đất được xây dựng hình rắn thuộc dấu vết của tín ngưỡng này.

Con rắn thần Quetzalcoátl (hay rắn lông chim) chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong các thần điện của người Aztec. Thần rắn lông chim xuất hiện trên các cấu trúc trong thành phố cổ Teotihuacan tại Mexico. Rắn trở thành một đối tượng thờ cúng và biểu trưng ý niệm về thời gian của người Mexico cổ. Ở Mexico cũng có một ngôi đền dành riêng cho thần của không khí và cửa đền giống như miệng một con rắn. Người ta tìm thấy rất nhiều hình rắn lớn được trang trí trong các đền thờ, trong đó tiêu biểu là rắn chuông.

Không chỉ là biểu tượng của vị thần sáng thế, người Mexico cổ còn xem rắn như một vị thần bảo hộ của gia đình. Người ta có thể để nó sống như những thành viên trong nhà. Nói chung, ở Mexico, rắn được thiêng hóa, và là biểu tượng của vị thần mang nhiều tính năng. “Đối với các thổ dân, con rắn trở thành một biểu tượng của thần nội bộ chứ không dành cho những người khác bên ngoài mà cũng không đơn thuần là đại diện cho các thuộc tính chỉ riêng về một vị thần nào đó. Về sau, rắn này đã nhập vào trong tôn giáo của những người Mexico bằng những hình thức uyển chuyển khác nhau”(10).

Sự ám ảnh của loài rắn đối với con người không chỉ được thể hiện bằng các nghi lễ hàng ngày trên trần thế mà người ta còn tin rằng nó hiện hữu cả trong thế giới âm ty. “Người da đỏ Pueblo gắn nguồn gốc bài hát với âm phủ và loài rắn cõi âm khton (khi con rắn bị đốt cháy, các mảnh thân xác của nó biến thành bài hát)(11).

Ở châu Á, tại Iran, quốc gia sở hữu vườn treo Babylon huyền thoại, người ta đã tìm thấy dấu vết của của tín ngưỡng thờ con rắn thiêng qua các hình vẽ, vòng tròn được chạm khắc trên vách các hang động. Trong đền thờ thần Bel (hoặc Belus, thần ánh sáng) có hình ảnh của nữ thần Rhea (nữ thần màu mỡ, sinh sản, được xem là mẹ của các vị thần), ngồi trên ngai vàng, đầu gối quỳ trên hai sư tử, và gần một con rắn màu bạc lớn. Cũng có một hình ảnh của nữ thần Juno (người La Mã xem bà là nữ thần coi sóc tình yêu và hôn nhân) tay phải đang cầm đầu một con rắn. Tuy nhiên, trong truyền thống lịch sử, người ta vẫn đồng nhất rồng (với nghĩa là một con rắn lớn) và rắn. Sự sống của những con rắn ở Babylon được gìn giữ một cách tôn kính.

Người Ba Tư cổ thờ rắn rất thành tâm trước các đền thờ, nơi diễn ra các lễ hiến tế và lễ hội bằng sự kính trọng đối với những vị thần vĩ đại nhất của họ. Trong thần thoại của người Ba Tư, sự đấu tranh giữa hai vị thần thiện – ác, Ormuzd và Ahriman, được hình dung là hai con rắn đang tranh nhau quả trứng vũ trụ. Trong các truyện ngụ ngôn và truyền thuyết, các vị thần ác được coi là có đặc điểm của rắn. Theo John Bathurst Deane, ở Ba Tư, trong một hang động cổ, người ta tìm thấy một ngôi đền giữa hồ nước, trong đó thờ thần mặt trời. Điều đáng lưu ý là vị thần này đứng trên một đám mây và có rắn quấn quanh mình. Như vậy, tín ngưỡng thờ rắn ở Ba Tư không chỉ có mối quan hệ với các vị thần sáng tạo mà còn với nước và lửa. Tục thờ rắn còn được tìm thấy trong dấu ấn của chữ tượng hình. Hình ảnh con số 2 ( ) với đôi cánh như một vòng tròn khép kín đôi khi cũng biểu trưng cho rắn có cánh và cũng ẩn dụ cho thần mặt trời. Người ta cho rằng nguồn gốc của biểu tượng này được bắt nguồn từ sự sùng bái con rắn thiên đường và liên quan đến những bí ẩn trong quan niệm về thế giới của người bản địa. Hình ảnh rắn có cánh cuộn vòng tròn dường như có mối liên hệ với thế giới và mặt trời. Với đôi cánh, tượng trưng cho sức mạnh di chuyển của một vị thần, gắn với nước, lửa (hai vật chất ban đầu của thế giới), rắn được xem là vị thần đầu tiên, là trí tuệ và là cội nguồn của sự sống thế giới.

Đối với người Hindustan, rắn như một biểu tượng của thần thánh và đi sâu vào tôn giáo của người Balamon với lễ hội của rắn. Trong lễ hội, người ta chia phần gạo của mình cho các con rắn với hy vọng điều này sẽ giảm bớt những rủi ro và mang lại những điều tốt đẹp. Ở một số nơi thuộc Bengal (Ấn Độ), người ta tổ chức lễ hội rắn bằng nhiều cách khác nhau, nhưng thờ rắn được tổ chức hàng năm vào ngày cuối cùng của tháng Sravana Bengal (July-August). Các gia đình đều nặn một mô hình nữ thần đất sét hình đôi rắn có vành mũ trùm trên vai, thờ trong nhà, và một con dê hay lợn sẽ làm vật hiến tế. Trước khi nữ thần đất sét ngập trong nước ở phần cuối của lễ hội, rắn đất sét được gỡ bỏ khỏi vai nữ thần. Người dân tin rằng việc làm này sẽ giúp họ chữa khỏi bệnh tật, đặc biệt là bệnh trẻ em.

Tín ngưỡng thờ rắn của người Hindu còn được thể hiện trong điêu khắc, với hình ảnh các vị thần cầm rắn trên tay hay để rắn quấn ngang mình. Trên các mái, vách của các ngôi đền, hang động cổ, người ta cũng tìm thấy những hình ảnh rắn được chạm khắc tương tự. Ở Ấn Độ, rắn được xem như là một biểu tượng của sự bất tử. Tín ngưỡng thờ rắn đã ăn sâu trong đời sống văn hóa của cư dân nhiều vùng lãnh thổ của đất nước này. Rất nhiều địa danh được lấy tên từ âm hưởng của Naga (rắn). Không chỉ những hình ảnh, tượng trong đền đài, rắn còn hiện hữu trên cả những trang sức của người dân.

Tại Trung Quốc, tín ngưỡng thờ rắn được biết đến khá sớm và còn lưu lại trên các vách đá, chẳng hạn như tranh thần Phục Hy đầu người đuôi rắn, thần Nữ Oa đầu người mình rắn… “Các đền miếu thờ rắn ở Trung Quốc từ miền bắc tới miền nam nhiều vô kể. Đặc biệt là ở các tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông thuộc miền duyên hải Hoa Đông và vùng Lĩnh Nam Trung Quốc. Ngay ở thành phố Tô Châu tỉnh Triết Giang cũng có miếu thờ xà vương, trong có tạc tượng xà vương bằng hình một vị tướng quân”(12). Tương truyền, ngày 12-4 âm lịch là ngày sinh của xà vương, người dân đi cúng tế tấp nập, nhộn nhịp. Dân gian thường cúng thần rắn bằng các loài ếch nhái, vì họ cho rằng lúc còn sống, rắn thích ăn thịt ếch nhái.

Ở Đông Nam Á, tục thờ rắn cũng rất phổ biến. Trong tín ngưỡng dân gian của người Campuchia, thần rắn Naga có một vai trò rất quan trọng. Naga không đơn thuần là một vị thần tối thiêng mà còn đồng nghĩa với tính liên tục của lịch sử đất nước này. “Họ thờ cúng một cách phổ biến thần đất và thần nước. Biểu tượng của những sức mạnh thiên nhiên, những sức mạnh có ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân trên đất nước này – nơi đất và nước quyết định sự no đói, giàu nghèo – là một con rắn chín đầu gọi là Naga”(13).

Trong văn hóa dân gian Việt Nam, rắn là một hình tượng phổ biến và có sức ám ảnh mạnh mẽ, phổ biến nhất của người Việt ở đồng bằng sông Hồng. Có thể thấy tục thờ rắn ở các đền dọc theo sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống… và qua các di tích, lễ hội…

Tục thờ rắn với tư cách là thủy thần không chỉ phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ mà còn có ở miền Trung, Tây Nguyên và cả miền Tây Nam Bộ.

Người Mường ở Thanh Hóa cũng có tục thờ rắn. Ngôi đền thờ thần rắn được biết đến hiện nay ở thôn Lương Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy. Tại đây có một dòng suối rất nhiều cá. Tương truyền, cá ở đây do một thần rắn bảo hộ, che chở. Người dân tin rằng, ai làm hại tới những con cá sống ở đây thì sẽ chuốc lấy những hậu quả khôn lường. Đình làng Phú Bài, xã Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế cũng lập bài vị thờ ông dài, ông cụt. Theo truyền thuyết, đây là hai con rắn, một dài một cụt vốn là con của thần gió từng hiển linh giúp đỡ dân làng, đem lại mưa thuận gió hòa, nên được dân làng tưởng nhớ, tôn xưng là thủy thần.

Với người dân miền Tây Nam Bộ, cùng với hổ, cá sấu… thì rắn cũng là đối tượng phải dè chừng, đối phó và chinh phục. Có lẽ vì thế mà ngày nay vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện, giai thoại về rắn. Người ta sợ rắn, muốn cầu thân với rắn và do thế, thờ rắn. Tại xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, Bến Tre có một ngôi đình rắn, tại đây vẫn lưu truyền về đôi rắn thần khổng lồ, hiền lành.

Nhìn chung, tục thờ rắn là một trong những tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt cổ. Xuất phát từ môi trường tự nhiên gắn với điều kiện sông nước, đầm lầy, hình tượng rắn đã được đồng hóa với nước, thủy thần và đi vào tâm thức dân gian từ rất sớm và thường gắn với tục thờ các vị thần tự nhiên. Trong quá trình phát triển của lịch sử, tín ngưỡng thờ Rắn đã được khoác thêm nhiều lớp văn hóa muộn hơn và ít nhiều có biến đổi cho phù hợp với từng điều kiện mới. Do vậy, “Thủy Tinh với tư cách là một đối thủ của Sơn Tinh không có mặt trong các thành hoàng có sắc phong cũng như các thần có thần tích; chỉ gặp trong những thần sắc ghi chung chung là thủy thần thời Hùng Vương”(14).

Không chỉ thờ rắn với tư cách là thủy thần, người Việt còn xem rắn là vật tổ. Tục thờ vật tổ là một hình thức tín ngưỡng nguyên thủy, tồn tại trong các thị tộc. Người ta thờ cúng các động vật, thực vật với niềm tin về một mối liên hệ của những người cùng chung sống trong một cộng đồng. Dấu vết về tục thờ vật tổ rắn của người Việt cổ cũng được ghi lại trong các văn bản xưa. Sách Thuyết văn giải tự chép: người Việt (Mân Việt) ở miền đông nam cùng với người Man hay Nam Man đều thuộc dòng giống rắn (tức coi rắn như vật tổ của mình); hay Lĩnh Nam tạp ký của Ngô Chấn Phương miêu tả cảnh tế thần rắn của người Việt ở vùng Triều Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay (15). Ninh Viết Giao khi sưu tầm, nghiên cứu về văn học dân gian xứ Nghệ đã nói đến motip con rắn xanh cũng được kể ở khá nhiều nơi: “Rắn xanh được thờ ở nhiều nơi và được đưa thành một motip trong truyện kể, bởi rắn được tượng trưng cho thần nước trước khi là rồng”(16). Cũng chính rắn đã trở thành vật tổ của họ Ngân (ở vùng núi Nghệ An) khi giúp họ Ngân tìm ra nước giải hạn trong lúc họ chạy nạn. Trong nội dung thần thoại Lạc Việt, Đinh Gia Khánh cũng đề cập đến vấn đề thờ vật tổ của người Việt: “Lạc Long Quân thuộc nòi rồng. Chi tiết này phản ánh việc thờ giao long làm vật tổ… Do việc xăm mình theo hình giao long, lâu dần tổ tiên ta tự cho mình là con cháu giao long”(17). Phan Đăng Nhật qua phân tích hình tượng rắn trong mối quan hệ giữa rắn và con người, cũng đưa ra nhận định là giữa rắn và người có mối quan hệ thân thiết ruột thịt, thậm chí cùng chung một dòng máu. Tác giả khái quát biểu tượng rắn trong quan hệ với người thành ba dạng: rắn là con nuôi của người, mẹ người +…= rắn; hôn nhân người – rắn; mẹ người + bố rắn = trứng. Cuối cùng tác giả mô hình quá sự chuyển biến và kết hợp giữa huyền thoại chim tổ và huyền thoại rắn bố để trở thành mẹ tiên Âu – bố rồng Lạc sinh ra bọc trứng (18).

Chúng tôi cho rằng, việc thờ vật tổ của thị tộc người Việt cổ là rất phổ biến, trong đó, thị tộc thờ rắn là một trong những thị tộc mạnh thời bấy giờ. Cùng với thời gian và sự phát triển về ý thức, tín ngưỡng thờ vật tổ là cơ sở quan trọng của việc hình thành biểu tượng quốc gia sau này.

2. Rắn và những huyền thoại

Ở Trung Mỹ, huyền thoại (19) thần rắn lông chim Quetzalcoátl rất được ca ngợi. Thần Quetzalcoátl có nhiều hóa thân và tính chất của thần cũng có nhiều mặt. Quetzal có nghĩa là lông chim vừa có nghĩa là quý giá; coátl vừa có nghĩa là con rắn vừa có nghĩa là song sinh. Quetzalcoátl cũng thường được đồng hóa với một trong những vị thần rất xưa: Một con rồng trên trời thường trừng phạt con người bằng cuồng phong và lụt lội, và thưởng cho con người bằng cách giúp họ được mùa. Mặc dù có nhiều hóa thân, nhưng vị thần Quetzalcoátl chủ yếu được mô tả dưới hai hình dạng: có khi là một con rắn phủ lông chim, có khi lại là một chiến binh cao lớn, mang mũ làm bằng da mèo rừng (ocelot)…

Người Fon ở Dahomey (châu Phi) nói rằng, rắn đã có từ rất lâu đời, trước cả khi đất được tạo ra. Dưới dạng rắn thần Aido Hwedo, rắn đã phục vụ cho vị thần sáng tạo Mawu. Rắn ngậm đuôi tạo nên vòng tròn kín biểu tượng cho sự vĩnh cửu của người châu Phi. Nhiều nền văn hóa ở châu Phi cũng xem rắn là thủy tổ của mình. Người Venda kể rằng bộ lạc họ được tạo ra từ xác một con rắn. Con rắn Tharu tự chia làm hai phần: đầu (tholo) và đuôi (tshamutshila), mỗi phần bò về một hướng. Cả hai phần đều hóa thành người, trở thành những thủ lĩnh của bộ tộc. Về sau họ gặp nhau và trở lại trạng thái nguyên thủy ban đầu là rắn.

Người Ai Cập cũng có những huyền thoại về thời kỳ hỗn mang, sáng thế, trong đó rắn Apep đóng vai trò như một vị thần cội nguồn của sự sống. Nó cuộn mình trong vũng nước nguyên thủy và thụ tinh cho quả trứng vũ trụ. Huyền thoại Mexico cổ đại (người Toli, Asti và một phần của người Maia) cũng nói đến một vị thần trung tâm là con rắn lông vũ, thần Kesalkoatl. Ở vị thần này nổi lên hàng đầu là đặc tính của đấng sáng tạo và một phần anh hùng văn hóa.

Trong thần thoại Hy Lạp, hình tượng rắn cũng được miêu tả với tư cách là các vị thần. Theo huyền thoại, Python là con của Gaia được nặn bằng bùn và đất đọng lại sau trận lụt lớn Deucalion. Vì Pythong quá hung dữ không ai dám lại gần nên dân chúng xin thần Appolo trợ giúp. Thần Appolo từ núi Olympus hiện xuống, dùng cây cung bạc, bắn mũi tên vàng giết chết Python, do đó thần Appolo còn được gọi là Pythian Appolo. Một quái vật nửa người nửa rắn khác là Echidna. Đây là quái vật đã kết hôn với Tiphông – thần bị Dớt đánh bại và tống giam xuống địa ngục. Cuộc hôn nhân quái đản này đã cho ra đời những đứa con quái đản không kém. Đa số chúng kế thừa tính quái vật từ mẹ. Đó là Khimer đầu sư tử, đuôi rồng, thân dê; đứa con thứ hai là chó ngao hai đầu Orthrôx và đứa thứ ba là chó ngao ba đầu Xerber. Stephen Oppenheimer đã dẫn ra câu chuyện Ninurta và Kur các đây ít nhất 5500 năm kể lại chuyện vị thần anh hùng Ninurta chiến đấu với quái vật hình rắn Kur trong thế giới nước. Trong trận đánh, biển dâng cao và tràn ra làm mặn đất. Ninurta đã để một tảng đá lớn đè lên xác Kur tạo ra một con đê chắn biển, nhờ đó mà người Tigris có thể rửa mặt”(20).

Rắn là một hình ảnh quen thuộc trong thần thoại Ấn Độ, tiêu biểu cho những huyền thoại đó phải kể đến rắn Naga. “Trong thần thoại, những con rắn thần được coi là Naga, đôi khi có biểu tượng là đầu người mình rắn. Những con rắn thần nổi tiếng là rắn Sêsa (hay Ananta) đã cuộn mình nổi trên biển vũ trụ để đỡ cho thần Visnu khi tạo dựng vũ trụ, rắn Vasuky dùng mình làm dây kéo quanh cột núi Mêru trong huyền thoại khuấy biển sữa”(21). Hình tượng thần Visnu được miêu tả rất nhiều kiểu, có sách nghiên cứu liệt kê 24 hình ảnh khác nhau của Visnu, chưa kể hàng chục kiếp hóa thân khác. Hai hình ảnh thông thường nhất là Visnu nằm nghỉ trên mình con rắn thần Sesa bồng bềnh trên mặt biển Ananta (vô biên) hoặc Visnu đứng thẳng, bốn tay nắm giữ bốn vật tượng trưng là vỏ ốc, đĩa tròn, bông sen và cái chùy. Trong kinh Vêđa, hình tượng rắn thần Vritra được miêu tả như một vị thần canh giữ những dòng sông. Nó chiếm và uống sạch các nguồn nước, làm cho mặt đất khô cạn. Cho đến khi nó bị thần Inđra tiêu diệt thì các dòng sông lại được khơi thông. Thần đã làm cho các dòng sông có nước chảy sau khi dùng quyền uy và sức mạnh giết chết Virtra – con rồng xưa nay uống sạch các nguồn nước.

Các thổ dân Australia cũng có huyền thoại về con rắn cầu vồng. Với họ rắn cầu vồng là một lực lượng thiêng liêng, gắn với các nghi lễ tôn giáo nguyên thủy. Theo Cowan, huyền thoại về con rắn cầu vồng là một phần của chủ đề tôn giáo cổ xư­a nhất được tiếp tục dẫn chứng bằng tư­ liệu qua những hình ảnh đ­ược ghi chép lại trong những bức tranh hang động từ hơn 20.000 năm tr­ước. Một huyền thoại cổ ở vùng Arnhemland kể rằng, tổ tiên vĩ đại Ngaljod tr­ước hết tạo ra chính mình như­ Ulbar, một khúc gỗ có lỗ hổng dài. Ulbar tạo ra âm thanh, đã đư­ợc dùng như­ một cái cồng trong các nghi lễ thần thánh, đư­ợc xem như­ một vật hết sức thiêng liêng. “Lỗ hổng của Ulbar hay con rắn cầu vồng, thỉnh thoảng đư­ợc đề cập đến nh­ư là tử cung của ng­ười mẹ vĩ đại và hình dáng bên ngoài đ­ược xem như­ là cơ quan sinh dục nam hay hình thể giống đực của con rắn cầu vồng”(22).

Hình tượng rắn xuất hiện trong huyền thoại khai thiên lập địa của Trung Quốc và tồn tại với rất nhiều biến thể về sau. Đầu tiên phải kể đến một vị thần khai sáng là Bàn Cổ, thần được miêu tả rất phong phú về hình dáng, trong đó có một điểm rất đáng chú ý là “Bàn Cổ có đầu rồng, mình rắn, thở ra thành gió mưa, rít lên thành sấm chớp, mở con mắt ra thì là ban ngày, nhắm con mắt lại thì là ban đêm”(23). Một số thần khác liên quan đến hình tượng rắn là thần Cộng Công và Tướng Liễu. Thần Cộng Công là một vị thần ác khét tiếng, có mặt người mình rắn, tóc đỏ, ngu xuẩn nhưng lại hung bạo. Thần Cộng Công có một kẻ bộ hạ là thần Tướng Liễu, cũng mặt người mình rắn, có chín cái đầu, tính tình độc ác tham lam (các bộ hạ của thần Cộng Công nói chung là hung ác, nham hiểm). Trời đất đang bình yên, con người đang sống yên ổn thì thần Cộng Công và thần lửa Chúc Dung xảy ra mâu thuẫn và đánh nhau. Thần Cộng Công húc đổ chiếc trụ bất chu (trụ chống trời), làm cho một nửa bầu trời phía tây bị sụp, rách nát nhiểu lỗ thủng. Mặt đất cũng bị sụt, nước dâng cao, loài người vô cùng khốn đốn. Trước cảnh đó bà Nữ Oa phải đi vá trời.

Trong huyền thoại của người Nhật, rắn là một con vật thần thánh, đầu rồng có nhiều phép thuật và có hình thể vũ trụ. Quái vật này chuyên hại người bằng cách bắt cóc các trinh nữ để ăn thịt (24). Ngoài ra, có thể kể đến một số huyền thoại về rắn như sau: truyện Động đất của người Indonesia, huyền thoại Nguồn gốc của thế giới chúng ta, Nguyệt thực của người Myanma; huyền thoại về Sự tích núi Ganlaon của người Philippin; truyền thuyết Preng Thong của Campuchia…

Hình tượng rắn trong các huyền thoại Việt Nam có thể kể đến các truyện như sau: Câu chuyện mở đầu của người Mông, cũng có một huyền thoại, Truyện rồng và người của người Lô Lô; truyện Nguồn nước khổng lồ của người Cơ ho; huyền thoại về Linh Lang; Ông dài ông cộc; truyện Thần nước, Sự tích núi Ngũ hành. Và tất nhiên phải kể đến huyền thoại Con rồng cháu tiên. Đây chính là huyền thoại chim tổ và huyền thoại rắn bố để trở thành mẹ tiên Âu – bố rồng Lạc sinh ra bọc trứng, nở ra trăm con – cội nguồn của người Việt ngày nay.

3. Bước đầu lý giải nguồn gốc ý nghĩa biểu trưng của hình tượng rắn

Chúng ta biết rằng, thờ rắn là một hình thái tín ngưỡng nguyên thủy, ra đời trong thời kỳ mà con người chưa tách mình ra khỏi tự nhiên, nhận thức về tự nhiên còn rất sai lầm. Tất cả sự nhận thức, phản ánh của con người đều thông qua sự hình dung, tưởng tượng. Nếu sự tưởng tượng của người cổ xưa luôn xuất phát từ hiện thực cũng như các vị thần thường bắt đầu với chính bản thân con người thì, theo chúng tôi, các ý nghĩa biểu trưng của hình tượng rắn phần lớn chính là sự mô phỏng hiện thực tự nhiên này. Trong phạm vi tư liệu có được, chúng tôi xin bước đầu lý giải như sau.

Thứ nhất, các ý nghĩa biểu trưng của rắn xuất phát từ chính sự phức tạp của bản thân đối tượng. Theo lịch sử tiến hóa của các loài thì sau lớp cá là đến loài bò sát. Các nhà khoa học dự đoán rằng, rắn xuất hiện trên trái đất cùng lúc với loại khủng long vào thời đại Triassic khoảng 200 triệu năm trước đây. Căn cứ vào những bằng chứng tìm được trong thời Cretaceous cách đây khoảng 130 triệu năm, một số người đưa ra giả thuyết rắn do loại thằn lằn chuyên sống trong hang dưới đất biến thể, theo lịch trình tiến hóa biến thành. Gần đây các nhà khoa học đã phát hiện được hóa thạch của “loài trăn Titanoboa cerrejonensis dài đến 13m và nặng hơn 1 tấn. Loài trăn này được xác định đã sống tại khu vực Nam Mỹ cách đây khoảng 60 triệu năm… Titanoboa trở thành động vật cổ đại dài nhất thế giới đã từng được phát hiện”(25). Sự có mặt một cách phong phú của loài bò sát này từ rất sớm cùng với những đặc tính của nó đã ảnh hưởng đến cuộc sống và nhận thức của người nguyên thủy.

Rắn có đủ các màu sắc, kích cỡ, có thể sống được ở hầu hết các môi trường tự nhiên. Từ trên núi cao đến biển sâu, từ sa mạc đến rừng rậm, trên cây hay dưới đất, không có chân nhưng khả năng di chuyển rất nhanh mà không gây ra tiếng động. Rắn có thể di chuyển nhiều tư thế (bò ngang, thẳng, nửa dưới đất nửa thẳng đứng…). Đối với con người thì rắn vừa có hại, vừa có lợi (rắn bắt chuột bảo vệ mùa màng, rắn làm thuốc chữa bệnh)… Nói chung, rắn là đối tượng rất khó nắm bắt, luôn mang đến cho con người sự ngạc nhiên và bí ẩn, không thể giải thích được. Nó trở thành nỗi ám ảnh và kích thích trí tưởng tượng, mong muốn giải thích của người nguyên thủy, nhưng lại không đủ tri thức và sự hiểu biết để giải thích về đối tượng, nên họ thần thánh hóa con vật này.

Hình dạng và đặc điểm di chuyển của loài rắn là cơ sở để người xưa hình dung và đồng nhất rắn với những con sông – nguồn nước. Nếu nhìn con sông từ trên cao xuống thì rất giống với hình ảnh một con rắn đang bò. Một đặc điểm khác của loài rắn hổ mang (khi nổi giận) thường phát ra tiếng gió phì phì… (có lẽ đây là những lý do rắn mang ý nghĩa biểu trưng của bão). Hơn nữa loài rắn có đặc điểm ngủ đông lạnh và xuất hiện lại với mùa mưa, chúng bơi tốt, và nhiều loài được nhìn thấy trong nước, trong các hồ và sông. Hình ảnh tia chớp (dấu hiệu của mưa) có những nét tương đồng với lưỡi rắn; màu sắc và các sọc của loài rắn (nhiều loài rắn có các sọc chạy dọc theo cơ thể với các màu sắc rất sặc sỡ) chính là cơ sở để con người liên hệ rắn với cầu vồng (rắn cầu vồng). Theo các nhà sinh vật học thì loài rắn thường đẻ trứng và đẻ nhiều (một số ý kiến còn cho rằng có loài rắn đẻ thai). Rắn đực thường có dương vật to gấp hai lần bình thường; cử động của đầu rắn cũng làm cho người ta liên hệ đến cơ quan sinh dục. Có lẽ đây là cơ sở của biểu trưng cho sự mắn đẻ, các nghi lễ cầu thai. Trong một huyền thoại về nước cho biết: khi trời và đất giao phối với nhau, các tinh khí bắn ra và tạo thành mưa, làm cho vận vật sinh sôi nảy nở… Loài rắn có đặc tính lột da, do vậy nó biểu trưng cho sự tái sinh, bất tử. Với niềm tin đó, các pharaong đã mang trên mình hình ảnh rắn với mong muốn được bất tử như loài rắn. Rõ ràng đây là sự nhận thức sai lầm của người nguyên thủy về loài bò sát này. Trên thực tế loài rắn không hề bất tử như người cổ xưa tưởng tượng. Trong quá trình phát triển, lớp da bao bọc bên ngoài không còn phù hợp với kích cỡ mới nên rắn lột da, và chúng cũng có tuổi thọ như bao nhiêu động vật khác

Thứ hai, như đã trình bày, người nguyên thủy chưa có tri thức để giải thích các hiện tượng tự nhiên xung quanh mình. Về cơ bản đó là những nhận thức và lý giải sai lầm, chủ yếu bằng tưởng tượng. Một trong những cách thức phổ biến nhất là nhân cách hóa các hiện tượng tự nhiên. Các hiện tượng tự nhiên như vòi rồng ở biển, các cơn lốc xoáy với hình thù uốn lượn đã được nhân cách hóa thành hình tượng rắn. “Cột nước thường xuất hiện ở bờ biển Nhật Bản được dân địa phương coi là những con rồng đuôi dài bay lên trời rất êm đềm nhưng cũng rất nhanh. Người Trung Quốc cho rằng cột do rồng bay lên và xuống nước tạo ra”(26).

Thứ ba, các ý nghĩa biểu trưng của rắn chủ yếu được hình thành bằng tư duy huyền thoại – tư duy chủ yếu tập trung vào những vấn đề siêu hình, bí ẩn, của sự sống và cái chết… các vấn đề mà không phải lúc nào sự giải thích bằng logic khoa học cũng làm cho con người thỏa mãn. Một xu hướng của huyền thoại là dần dần thể hiện cái khó hiểu bằng cái dễ hiểu, cái không thể hiểu được bằng trí tuệ thông qua cái có thể hiểu được bằng trí tuệ. Melentinsky chỉ ra rằng, “logic huyền thoại sử dụng rộng rãi các cặp đối lập nhị phân (cặp đôi) những phẩm chất cảm xúc, đồng thời qua đó khắc phục tính liên tục của tri giác về thế giới xung quanh bằng cách tách các khuôn hình riêng rẽ có dấu hiệu mâu thuẫn”(27). Qua huyền thoại và tục thờ như đã nêu, các biểu trưng của rắn thường đi theo một logic đối lập – cặp đôi. Ban đầu nó biểu trưng cho nhận thận thức đơn giản như: trên/dưới, khô/nước, nóng/lạnh… cho đến các cặp đôi mang tính phức tạp hơn như: nước/ lửa, trần gian/địa ngục, sự sống/cái chết, khổ đau/hạnh phúc… Có thể nói, để ẩn dụ, biểu trưng cho các vấn đề của giới tự nhiên, xã hội và các trạng thái phức tạp của tình cảm con người trong xã hội và trình độ nhận thức lúc bấy giờ thì rắn là một sự lựa chọn hoàn hảo.

Như vậy giữa hình tượng rắn với các hiện tượng tự nhiên (mặt trời, chớp, gió bão, mưa) và đời sống (sinh sản) có một mối liên hệ về chất. Nếu nhìn bằng trực cảm thì những hiện tượng này có vẻ như trái ngược nhau, nhưng thực tế đây là những hiện tượng tự nhiên cơ bản nhất chi phối trực tiếp và có tính quyết định đến đời sống và phương thức sản xuất vốn rất thấp kém của người nguyên thủy. Các hiện tượng nói trên là tổ hợp của những niềm tin và tín ngưỡng liên quan đến các nghi lễ nông nghiệp. Chúng không hề đối lập nhau mà thống nhất trong trí tưởng tượng và nhận thức của người nguyên thủy về thế giới. Nói cách khác đây là một hình thức tư duy đặc trưng của người nguyên thủy – tư duy nguyên hợp. Việc nhận thức và tôn thờ rắn đã thể hiện một bước tiến trong nhận thức về thế giới tự nhiên và đời sống của người thời xưa. Thế giới là sự thống nhất của những mặt đối lập. Đây là mầm mống tư tưởng biện chứng của con người trong quá trình nhận thức, phản ánh và chinh phục tự nhiên.

Nói chung, rắn là một hình tượng vô cùng phức tạp và nhiều vẻ. Chúng tôi không có tham vọng tổng kết được vấn đề qua một bài báo hay đưa ra một nhận định khái quát, mới mẻ cho toàn bộ ý nghĩa biểu trưng của con vật này. Ngay cả Propp cũng thừa nhận: “Mọi nỗ lực đưa ra cách giải thích nhất quán cho hình tượng này từ trước đến nay đều thất bại, và kết luận chung thì lại luôn dẫn đến những kiểu tán đồng và như vậy lại làm sai lệch bản chất của hiện tượng”(28). Do vậy, chúng tôi chỉ muốn xới lên vấn đề một lần nữa, bước đầu lý giải nguồn gốc của các biểu trưng và cung cấp thêm một số tư liệu về rắn trong folklore cho những ai quan tâm đến hình tượng rắn.

————————————–
Chú thích:

1. C.Sott LittLeton, Huyền thoại thế giới, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, 2006, tr.654.
2. Melentinsky, Thi pháp của huyền thoại, Song Mộc, Trần Nho Thìn dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr.237.
3, 5, 6. Nhiều tác giả, Văn hóa nghệ thuật châu Phi, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1982, tr.73, 74, 65, 50.
4, 7, 9, 10. Lược dịch từ The worship of the serpent, John Bathurst Deane, www.sacred-texts.com
8. Chevalier.J, Gheebrant.A (chủ biên), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Đà Nẵng, 1997, tr.764.
11. Melentinsky, Sự nảy sinh các hình thức ban đầu của nghệ thuật ngôn từ, LS văn học thế giới, tập 1, Nxb Văn học, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, tr.56.
12, 15. Nguyễn Sang, Rắn với con người, http://vantuyen.net
13. Phạm Việt Trung (cb), Lịch sử Cămpuchia, Nxb ĐH và THCN, tr.21.
14. Nguyễn Duy Hinh, Tâm Linh Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, 2007, tr.388.
16. Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ, tr.202, 206.
17. Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên, Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Nxb ĐH và THCN, tr.67.
18. Phan Đăng Nhật, Quá trình chuyển hóa biểu tượng Chim – Rắn từ huyền thoại cổ đến truyền thuyết Hùng Vương, Tạp chí Văn hóa dân gian số 3, 1983.
20. Địa đàng ở phương Đông, 2006, tr.486.
21. Nguyễn Thừa Hỷ, Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ, NXb Văn hóa, 1986, tr.36.
22. Vũ Tuyết Loan, Văn hóa thổ dân Austraylia, vanhoahoc.edu.vn
23. Đinh Gia Khánh, Thần thoại Trung Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, 1991, tr.13.
24. Xem Susanoo và con rồng tám đầu, truyện cổ Nhật Bản, Tạ Chí Đông Hải dịch, Nxb Trẻ, 2004.
25. Lan Chi, Phát hiện trăn khổng lồ dài 13m, http://giadinh.net
26. E.B.TyLor, Văn hóa nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, 2001, tr.394.
27. Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch, Nxb ĐHQG Hà Nội, tr.219.
28. Tuyển tập V.Ia.Propp, tập 1, Nxb Văn hóa Dân tộc – Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2003, tr.649.

Theo TRẦN MINH HƯỜNG / TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

Tags: , , ,