⠀
Đối sách quan hệ quốc tế của Việt Nam ở Tiểu vùng sông Mê Kông
Hiện nay, tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) đã trở thành một khu vực địa – kinh tế, địa – chính trị quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, là mục tiêu hợp tác của các nước lớn. Nhằm nâng cao vai trò và vị thế trong quan hệ với các nước lớn, các nước GMS và các nước liên quan, Việt Nam cần tận dụng vai trò là “cửa ngõ”, là “điểm rơi” trong chiến lược can dự vào GMS của các nước lớn; tăng cường các hoạt động ngoại giao song phương, phát huy vai trò cầu nối trong phát triển theo chiều ngang giữa các nước sông Mekong với nhau và với các đối tác như Mỹ, Nhật Bản…; theo quan hệ chiều dọc giữa các nước sông Mekong với Trung Quốc, tận dụng các cơ chế hợp tác hiện có, như Ủy hội sông Mekong (MRC) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tác giả: PGS, TS Nguyễn Thị Quế & TS Mai Hoài Anh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2019.
Mekong là con sông quốc tế nối liền Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và một phần lãnh thổ Trung Quốc. Khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) có vị trí nối liền khu vực Đông Nam Á với Đông Bắc Á và Nam Á. Hợp tác GMS được tăng cường từ năm 1992 thông qua Chương trình GMS của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và nhiều chương trình hợp tác khác. Trải qua gần 3 thập niên phát triển, hợp tác GMS được đánh giá là khá thành công, bởi lẽ nó đã làm thay đổi đáng kể đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các nước trong vùng.
Có thể thấy, GMS đã trở thành khu vực địa – kinh tế, địa – chính trị quan trọng ở Đông Nam Á, là mục tiêu hợp tác lý tưởng đối với các cường quốc. Từ năm 2000 đến nay, các nước lớn đã tăng số lượng và quy mô của các dự án hợp tác tại khu vực này. Sự can dự của Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ vào GMS ngày càng mang tính cạnh tranh chiến lược. Một loạt cơ chế hợp tác giữa các nước GMS và các nước đối tác đã hình thành như Hợp tác sông Mekong – sông Hằng (2000), Hợp tác Mekong – Nhật Bản (2008), Hợp tác các nước hạ nguồn sông Mekong – Mỹ (2009) và gần đây nhất là Hợp tác Mekong – Lan Thương (2016)… Các khuôn khổ hợp tác trong khuôn khổ GMS đã góp phần quan trọng vào củng cố hòa bình, ổn định, hội nhập và phát triển trong lưu vực và khu vực. Thông qua các cơ chế hợp tác, các kênh, diễn đàn mới được hình thành giúp các nước trong lưu vực tìm kiếm được những biện pháp thúc đẩy hợp tác kinh tế, giải quyết các vấn đề chung của khu vực và sử dụng tối đa tài nguyên trên cơ sở thảo luận bình đẳng, tự nguyện và cùng có lợi.
Tuy nhiên, môi trường an ninh khu vực hiện nay đang nổi lên rất nhiều vấn đề bất ổn như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên; cuộc chiến sắc tộc và tôn giáo; vấn đề khủng bố và ly khai; vấn đề vũ khí hủy diệt; vấn đề tranh chấp Biển Đông….Thêm vào đó, bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, sức mạnh kinh tế và chính trị của Mỹ suy giảm tương đối, đồng thời xuất hiện các nền kinh tế mới nổi là Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Brazil, Nam Phi (BRICS) làm thay đổi tương quan so sánh giữa các nước lớn ở cả tầm toàn cầu lẫn khu vực. Trung Quốc đã vươn lên trở thành nền kinh tế phát triển đứng thứ hai thế giới (2010) và cạnh tranh Trung – Mỹ trở thành chủ đạo trong cục diện khu vực và thế giới. Trong tương lai đến những năm 2025-2030, GMS vẫn là nơi thu hút sự quan tâm và gia tăng ảnh hưởng của các nước lớn. Trong đó, các nước Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ sẽ tiếp tục điều chỉnh chính sách để gia tăng ảnh hưởng và bảo vệ lợi ích của mình ở GMS.
Lưu vực sông Mekong ở Việt Nam có diện tích khoảng 71 nghìn km2, chiếm hơn 8% diện tích toàn lưu vực và 20% diện tích Việt Nam(1) nên có ý nghĩa chiến lược quan trọng về an ninh – quốc phòng, đối ngoại, kinh tế và văn hóa – xã hội. Với vị trí cửa ngõ phía Đông của GMS, Việt Nam có vai trò quan trọng trong kết nối khu vực và kinh tế phát triển năng động, là một động lực tăng trưởng quan trọng, một nhân tố không thể thiếu trong việc triển khai các sáng kiến liên kết kinh tế trong hợp tác GMS.
Việc các nước lớn cạnh tranh mở rộng ảnh hưởng vừa là cơ hội, vừa là bài toán lớn cho các nước GMS, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang diễn ra nhiều chuyển biến mới, nhanh chóng, phức tạp và khó lường, như việc hình thành khái niệm chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, những diễn biến tình hình trên bán đảo Triều Tiên, nguy cơ chủ nghĩa biệt lập và chiến tranh thương mại… đòi hỏi tư duy và cách tiếp cận mới trong chính sách đối ngoại, cụ thể là Việt Nam phải chủ động, tích cực hơn để xây dựng một môi trường quốc tế và khu vực hòa bình, ổn định, có lợi cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững, thực lực vững mạnh hơn và vị thế được nâng cao hơn trên trường quốc tế. Lợi ích quốc gia lâu dài đòi hỏi Việt Nam cần chú ý hơn nữa đến trách nhiệm quốc gia, để không chỉ là một “người bạn, một đối tác tin cậy” của các quốc gia khác mà còn phải là “một thành viên có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cần tận dụng vị thế địa – chiến lược của mình, vừa tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và các nước lớn, vừa chủ động ứng phó với những tác động tiêu cực từ sự hợp tác và cạnh tranh giữa các nước lớn. Vì vậy, gia tăng hợp tác cũng như vai trò đầu tàu trong hợp tác GMS là một lựa chọn hợp lý của Việt Nam trong cả hiện tại và tương lai. Vì một khu vực Đông Nam Á lục địa với dòng Mekong phát triển bền vững không chỉ có lợi cho sự phát triển của Việt Nam mà còn có lợi cho hòa bình, ổn định, hợp tác của khu vực và thế giới.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi xin được đề xuất một số đối sách nhằm nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, các nước trong Tiểu vùng và các nước liên quan như sau:
Thứ nhất, Việt Nam nên tận dụng vai trò là “cửa ngõ”, là “điểm rơi” trong chiến lược can dự vào Tiểu vùng của các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc. Theo đó, cần coi vấn đề sông Mekong quan trọng như vấn đề Biển Đông trong an ninh quốc gia và cần sự quan tâm và hành động ở tất cả các cấp bao gồm Chính phủ, Quốc hội, doanh nghiệp và các viện nghiên cứu… Bởi lẽ, xét về mặt chiến lược, khu vực GMS có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với an ninh, phát triển bền vững của đất nước, mà còn là khu vực lõi để từ đó phát huy vị thế Việt Nam trên một tầm nhìn rộng lớn hơn ra châu Á – Thái Bình Dương.
Thứ hai, tăng cường các hoạt động ngoại giao song phương với các nước trong khu vực và các nước lớn để duy trì quan hệ tốt đẹp, môi trường hòa bình, ổn định và tránh biến Mekong thành vấn đề lớn trong quan hệ Việt Nam với các nước; tăng cường thúc đẩy ngoại giao nhân dân, các cuộc tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm giữa nhân dân các nước cùng sống dọc dòng sông, tạo ra tiếng nói và hành động chung giữa nhân dân các nước, để từ đó tác động ngược trở lại đến quá trình hoạch định chính sách của Chính phủ; tăng cường tổ chức các hội thảo quốc tế về vấn đề hợp tác phát triển trong GMS và các cơ chế hợp tác với các nước lớn để tiếp thu các sáng kiến và khuyến nghị của các học giả trong quá trình đấu tranh bảo vệ lợi ích của nước hạ nguồn.
Thứ ba, Việt Nam cần tiếp tục phát huy vai trò cầu nối trong phát triển theo chiều ngang giữa các nước sông Mekong với nhau và với các đối tác như Mỹ, Nhật Bản…; còn theo chiều dọc là giữa Trung Quốc với các nước sông Mekong, cần tận dụng cơ hội mà các nước lớn (Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ…) quan tâm và tăng cường quan hệ với các nước Mekong để phát triển kinh tế mà Việt Nam có nhu cầu, qua đó nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh và năng lực hội nhập quốc tế của mình.
Với tư cách là một nước thuộc nhóm các nước phát triển hơn trong GMS và có nhiều thành tựu ấn tượng trong tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị của mình trong Hợp tác GMS thông qua việc tham gia vào các hoạt động cụ thể. Trong thời gian tới, các vấn đề an ninh phi truyền thống, như an ninh lương thực, an ninh con người, an ninh nguồn nước, an ninh môi trường sẽ là những trọng tâm của nhiều chương trình liên kết khu vực và quốc tế, trong đó có GMS. Cùng với đó, tầm quan trọng của khu vực GMS ngày càng tăng lên, thu hút sự quan tâm của nhiều cường quốc, do đó sẽ có nhiều cơ hội tốt để Việt Nam cũng như các nước trong Tiểu vùng tranh thủ thêm các nguồn tài trợ về nhiều mặt từ bên ngoài. Do đó, Việt Nam cần chủ động đề xuất và thực hiện linh hoạt các sáng kiến khác nhau như: diễn đàn, hội chợ triển lãm, du lịch, giao lưu văn hóa, giáo dục, thể thao, ẩm thực, biểu diễn thời trang…v.v.., cả ở cấp quốc gia và các địa phương liên quan của các nước. Đẩy mạnh công tác truyền thông quốc tế nhằm nâng cao nhận thức của người dân các nước ven sông Mekong nói chung, Việt Nam nói riêng về tầm quan trọng của an ninh nguồn nước; kêu gọi các nước GMS đặt ưu tiên cao hơn cho an ninh nguồn nước trong các kế hoạch và ngân sách quốc gia; gắn kết các nước vào các sáng kiến về an ninh lương thực, an ninh năng lượng, sức khỏe và biến đổi khí hậu…
Thứ tư, trong thời gian tới, việc tham gia các cơ chế hợp tác Mekong cần được chú trọng, nâng cao hiệu quả hơn nữa.Thực tế cho thấy, với khá nhiều các cơ chế hợp tác hiện nay ở GMS, thách thức lớn nhất đối với các nước là có quá nhiều cơ chế hợp tác chồng chéo, nhiều nội dung hợp tác trùng lặp, có những cơ chế tồn tại nhưng hầu như không hoạt động. Đối với Việt Nam, việc theo đuổi nhiều cơ chế khác nhau khiến sự tham gia có lúc, có nơi thiếu hiệu quả. Do đó, Việt Nam cần có chiến lược tổng thể cho việc tham gia các cơ chế hợp tác khu vực sông Mekong, trong đó xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, tập trung và phân bổ nguồn lực cần thiết để tham gia nhằm đạt hiệu quả tối ưu. Mỗi cơ chế hợp tác hiện nay có đặc điểm khác nhau, đồng thời có nhiều điểm chồng chéo. Việt Nam cần cùng các bên liên quan tiếp tục xác định tính đặc thù của từng cơ chế, sự bổ trợ của các cơ chế, loại bỏ những chồng chéo không cần thiết, cùng thúc đẩy các nội dung hợp tác có lợi trên cơ sở cân nhắc một cách tổng thể cả lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và lợi ích toàn khu vực.
Thứ năm, Việt Nam nên tận dụng các cơ chế hợp tác hiện có ở khu vực, đặc biệt là Ủy hội sông Mekong (MRC) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đưa vấn đề hợp tác phát triển cũng như an ninh nguồn nước sông Mekong vào chương trình nghị sự của các diễn đàn, hội nghị của các tổ chức này.
Đối với ASEAN: ASEAN có vai trò địa – chiến lược quan trọng hàng đầu trong khu vực. Là một nước có quy mô lớn trong ASEAN với dân số đứng thứ ba và diện tích lớn thứ tư trong ASEAN, Việt Nam cần tăng cường vai trò của mình trong ASEAN. Nếu không có ASEAN, Việt Nam sẽ khó khăn hơn nhiều trong quan hệ với các nước lớn, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và gia tăng hợp tác phát triển trong khuôn khổ GMS. Chính vì vậy, xây dựng Cộng đồng ASEAN và GMS mở rộng vững mạnh phải tiếp tục là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với định hướng lớn là đoàn kết, đồng thuận cao, đồng thời có các biện pháp tăng cường nội lực quốc gia để gánh vác những trách nhiệm lớn hơn với các vấn đề chung của khu vực và Tiểu vùng. Theo đó, Việt Nam cần coi việc hiện thực hóa và củng cố Cộng đồng ASEAN là một trong những nhiệm vụ quan trọng, một trong những trụ chính của chính sách đối ngoại. Hiện nay, về quản lý nguồn nước sông Mekong cũng như một số cơ chế khác đang được Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN đảm nhận, song do vấn đề liên quan đến các khía cạnh khác nhau, nhất là trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống, nên Việt Nam cần thúc đẩy đưa vấn đề này có thêm sự tham gia của Cộng đồng Chính trị – An ninh ASEAN.
Đối với MRC, tổ chức liên chính phủ quan trọng nhất trong việc quản trị nguồn nước sông Mekong: Việt Nam cần chủ động thúc đẩy các nước thành viên MRC tham gia đầy đủ vào các tổ chức và dàn xếp lưu vực, hàm ý các nước như Trung Quốc và Myanmar cần sớm trở thành thành viên chính thức của MRC, thể chế toàn diện nhất cho đến nay, trong quá trình quản lý các vấn đề chung của sông Mekong. Hiện tại, MRC vẫn chưa bao gồm tất cả các nước trong lưu vực, trong khi đó, Trung Quốc và Myanmar, với tư cách là hai nước thượng nguồn, lại đóng vai trò quan trọng trong việc cùng quản lý dòng sông theo tinh thần của Hiệp định năm 1995. Nếu được ủy thác nhiều quyền lực hơn nữa từ các quốc gia có chủ quyền, MRC có triển vọng sẽ đóng vai trò lớn hơn trong việc điều hòa các lợi ích đa dạng của các nước trong lưu vực thông qua việc xây dựng các chiến lược và chương trình hướng tới sự công bằng và bền vững. Trước mắt, Việt Nam cần thúc đẩy các quá trình tham vấn trước và tiếp tục vận động cho việc dừng các dự án xây dựng đập thủy điện ở các nước (nhất là ở Lào) trong vòng 10 năm để đánh giá kỹ lưỡng lại các tác động. Việc kêu gọi đồng thuận giữa bốn quốc gia thành viên MRC vì lợi ích chung của dòng sông, sử dụng một cách bền vững, công bằng và hợp lý là điều hết sức thiết yếu.
Việt Nam nên chủ động đề xuất với chính phủ các nước và MRC nghiên cứu việc xây dựng một định chế mới, hoặc mở rộng MRC hiện nay, bao gồm cả 6 nước thành viên và một hiệp định mới, hoặc cải tiến Hiệp định Mekong 1995 trên cơ sở rút kinh nghiệm về những gì tích cực cũng như những gì bất cập đã diễn ra trên thực tế; nghiên cứu xây dựng một Bộ quy tắc ứng xử (COC) như một bộ luật “mềm” điều chỉnh hành vi của các quốc gia ven sông cũng như các chủ thể có liên quan khác (các tổ chức, doanh nghiệp, người dân…). Bộ quy tắc ứng xử này sẽ chỉ ra những điều nên và không nên đối với các bên liên quan, trong đó quan trọng nhất là vai trò của các chính phủ trong lưu vực, nhằm bảo đảm việc khai thác, sử dụng dòng sông một cách hợp lý. Đó sẽ là những công cụ hữu dụng cho quá trình ra quyết định chính thức, nếu xác định rõ ràng trách nhiệm ràng buộc và chia sẻ lợi ích giữa các bên liên quan.
Thứ sáu, đối với các vấn đề nhạy cảm liên quan đến quản lý, chia sẻ nguồn nước, trên tinh thần xây dựng, hợp tác, quan tâm lợi ích của các bên liên quan, Việt Nam cần kiên trì vận động, đấu tranh, đồng thời có cách xử lý khéo léo, linh hoạt trong từng khuôn khổ hợp tác. Do sức ép phát triển kinh tế, các quốc gia trong lưu vực đang cố gắng khai thác triệt để tiềm năng phát triển thủy điện từ sông Mekong. Trung Quốc, Lào và Campuchia đã quy hoạch hơn 20 đập thủy điện, trong đó Trung Quốc đã xây được 8 đập ở thượng nguồn. Lào và Campuchia có kế hoạch xây 11 đập ở hạ nguồn. Gần đây nhất, Lào tuyên bố xây dựng đập Pak Beng – đập thủy điện lớn thứ ba, sau hai đập Xayaburi và Don Sahong(2) trên dòng chính sông Mekong. Các dự án thủy điện được dự báo là sẽ tác động sâu sắc đến đời sống người dân, môi trường, an ninh lương thực, sự ổn định của khu vực. Từ các tác động trên đây, khi đưa vào thi công và vận hành, các dự án này được dự báo có khả năng gây ra những tác động xuyên biên giới và gây căng thẳng quốc tế trong vùng hạ lưu sông Mekong. Bên cạnh đó, những thiệt hại dưới góc nhìn địa – chính trị cũng cần phải tính đến đó là quyền lợi quốc gia, dân tộc; mối quan hệ giữa các nước trong hạ lưu; sự phụ thuộc cũng như khả năng khống chế nguồn nước ở thượng nguồn…
Là quốc gia cuối nguồn, Việt Nam (cụ thể là khu vực đồng bằng sông Cửu Long) sẽ thường xuyên phải đối mặt với thách thức to lớn về nguồn nước, sinh kế, an ninh lương thực, môi trường và xã hội do tác động tích luỹ, xuyên biên giới của việc xây dựng và vận hành các công trình thủy điện trên dòng chính. Nguy cơ này sẽ lớn hơn khi bị cộng hưởng bởi tác động của biến đổi khí hậu do mực nước biển dâng. Vấn đề an ninh nguồn nước còn liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau như an ninh con người, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, môi trường, biến đổi khí hậu, bệnh dịch…, do đó đòi hỏi phải có một giải pháp tổng thể, liên thông, nhiều tầng nấc giữa các nước, các nhà tài trợ, các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức trong mỗi nước. Đặc biệt, vai trò của người dân sống trong các lưu vực phải được đặt ở vị trí trung tâm trong các quá trình hoạch định chính sách vì dòng sông là nguồn sống, là một trong những cội nguồn tạo nên văn hóa, lối sống của họ. Cuộc sống của hơn 60 triệu người(3) trong lưu vực sông Mekong phụ thuộc lớn vào nguồn nước, nguồn cá (trị giá hàng tỷ đô la Mỹ), giao thông thủy và nhiều tài nguyên khác của dòng sông quý giá này. Do đó, Chính phủ Việt Nam cần có hành động cụ thể để các bên liên quan trong hợp tác Mekong có trách nhiệm tuân thủ những cam kết sẵn có, đồng thời tiếp tục tìm kiếm giải pháp thay thế, bao gồm cả việc thiết lập cơ chế chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm trong vấn đề tài nguyên nước Mekong. Cụ thể như, đàm phán với chính phủ các nước hạ lưu sông Mekong xem xét tạm dừng các dự án thủy điện trong khu vực để tiến hành đánh giá một cách toàn diện, độc lập và minh bạch; đồng thời với tìm kiếm các giải pháp năng lượng thay thế và chính sách phát triển bền vững, bởi vì thúc đẩy các giải pháp năng lượng mới cùng các sáng kiến phát triển bền vững sẽ góp phần tăng cường khả năng phục hồi cho cả lục địa Đông Nam Á. Quốc hội Việt Nam cần đóng vai trò chủ động, giám sát việc thực thi chính sách nhất quán của quốc gia trong vấn đề quản lý, khai thác nguồn nước sông Mekong. Theo đó, Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội cần có các chương trình giám sát cụ thể để đảm bảo thực thi chính sách nhất quán của Việt Nam liên quan đến quản lý nguồn nước khu vực.
Đối với vấn đề xây dựng các đập thủy điện trên dòng sông Mekong, Việt Nam cần đấu tranh công khai và mạnh mẽ về việc tuân thủ những cam kết trong “Hiệp định về hợp tác phát triển bền vững sông Mekong”, đồng thời cần tận dụng tối đa các sáng kiến của Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia, EU v.v.. để phát triển bền vững ở khu vực này. Về mặt luật pháp quốc tế, Việt Nam cần thúc đẩy việc thực hiện Công ước Liên Hợp quốc năm 1997 về Luật Sử dụng các nguồn nước quốc tế cho mục đích phi giao thông thủy mà nước ta đã gia nhập tháng 8-2014. Đây là Công ước toàn cầu đầu tiên điều chỉnh khá toàn diện quan hệ giữa các quốc gia trong việc sử dụng các nguồn nước liên quốc gia với mục đích bảo đảm sử dụng nguồn nước một cách công bằng, hợp lý giữa thượng lưu và hạ lưu. Mặc dù ở Tiểu vùng, ngoài Việt Nam chưa có quốc gia ven sông Mekong nào gia nhập Công ước, nhưng Việt Nam vẫn có thể sử dụng Công ước để đàm phán giải quyết các vấn đề phát sinh đối với nguồn nước liên quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tích cực vận động các nước gia nhập Công ước để có thể áp dụng nguyên tắc sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước làm chuẩn mực chung trong quá trình khai thác dòng sông Mekong.
Thứ bảy, chủ động, tích cực đẩy mạnh hợp tác cấp khu vực trong việc sử dụng lợi ích dòng sông Mekong với các nước lớn. Việt Nam cần chủ động đưa ra đề xuất về các hỗ trợ cần thiết để xây dựng một chiến lược hợp tác trong sử dụng, quản lý và phát triển hiệu quả, bền vững các nguồn nước xuyên biên giới theo tinh thần đã được nêu trong tuyên bố chung của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống
Donald Trump vào tháng 5-2017. Hoặc Việt Nam cần tận dụng vị thế của mình trong cơ chế Hợp tác Lan Thương – Mekong để thương thuyết ở thế bình đẳng với Trung Quốc. Bởi vì trái ngược với MRC, nơi Trung Quốc không tham gia, Hợp tác Lan Thương – Mekong là một nền tảng đa phương mà ở đó Việt Nam có vị thế ngang bằng với Trung Quốc. Hợp tác Lan Thương – Mekong được xem là diễn đàn để Bắc Kinh thúc đẩy các đối thoại hợp tác kinh tế và mở rộng hạ tầng với các nước trong khu vực. Cùng với các hợp tác trong sáng kiến Một vành đai – Một con đường (OBOR), Hợp tác Lan Thương – Mekong sẽ mau chóng định hình vị thế ảnh hưởng vững chắc của Trung Quốc ở toàn khu vực Tiểu vùng sông Mekong. Trong viễn cảnh đó, Việt Nam cần đối sách ngoại giao linh hoạt để đảm bảo các lợi ích và vị thế chính trị của mình ở các thị trường truyền thống, như Lào và Campuchia trước thực tế những năm gần đây, dòng đầu tư và viện trợ của Trung Quốc vào Lào, Campuchia liên tục tăng mạnh và hiện đã vượt qua Việt Nam để trở thành nhà đầu tư số lớn nhất ở 2 nước này.
Thứ tám, hoàn tất các chính sách với các nước lớn.
Đối với Mỹ: Việt Nam cần thúc đẩy hơn nữa vai trò làm cầu nối của mình. Điều cần thiết là gắn kết mối quan hệ giữa Mỹ và GMS trên tất cả các lĩnh vực, thúc đẩy việc tăng cường và mở rộng phạm vi phối hợp giữa Mỹ và các nước Tiểu vùng trong xử lý các vấn đề quốc tế, khu vực mà các bên cùng quan tâm thông qua việc nâng cao hiệu quả cơ chế đối thoại chiến lược Mỹ – Mekong. Về kinh tế, Việt Nam cần phát huy vị trí cầu nối kinh tế, thúc đẩy đầu tư của Mỹ tới khu vực. Về an ninh – quốc phòng, Việt Nam cần hợp tác với Mỹ để nâng cao sức mạnh quân sự quốc phòng. Về văn hóa – xã hội, trong tương lai, quan hệ hợp tác Mỹ – Việt cần được tăng cường. Tuy hiện tại, mức đầu tư của Mỹ cho sáng kiến Hợp tác Mekong – Lan Thương ( LMI) được đánh giá là chưa thực sự lớn, tuy vậy vẫn đang tăng dần theo từng năm.
Đối với Trung Quốc: Về kinh tế, dưới những tác động chính sách kinh tế của Trung Quốc đối với GMS, Việt Nam cần xác định rõ phương châm, chủ trương hợp tác, chủ động trong việc trao đổi với phía Trung Quốc về các vấn đề liên quan tới hợp tác Tiểu vùng nói riêng và với sáng kiến Vành đai và Con đường nói chung. Do vậy, để có thể hợp tác kinh tế một cách toàn diện, tranh thủ nắm bắt được những cơ hội đầu tư tốt từ phía Trung Quốc, Việt Nam nên chủ động trong việc đề xuất các nội dung hợp tác có lợi cho phát triển kinh tế Việt Nam. Thêm vào đó, tích cực nắm bắt thông tin, trao đổi thông tin, nghiên cứu phân tích các chương trình dự án hợp tác kinh tế với Trung Quốc trong khuôn khổ hợp tác GMS và sáng kiến Vành đai và Con đường để có cơ sở khoa học đưa ra những quyết định hợp tác, lộ trình phát triển kinh tế khoa học. Với những dự án không phù hợp, Việt Nam cũng cần có thái độ rõ ràng, dứt khoát. Trong hợp tác trên các lĩnh vực, ngoài việc thể hiện thiện chí sẵn sàng hợp tác cùng phát triển, các cơ quan chính quyền cấp địa phương – những địa phương trực tiếp có liên quan trong hợp tác GMS cần có những động thái và biện pháp kiên quyết hợp lý trước các vấn đề gây bức xúc cho nhân dân (như về quyền lao động, vấn đề môi trường…). Bảo vệ quyền lợi của người dân và chủ quyền lãnh thổ quốc gia là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Các cơ quan chính quyền cần chú trọng lợi ích chiến lược lâu dài trong tương lai khi tham gia hợp tác với Trung Quốc. Đối với các vấn đề an ninh phi truyền thống như tội phạm xuyên quốc gia, buôn lậu hàng hóa và ma túy, ngăn chặn dịch bệnh… Trung Quốc và Việt Nam cần tăng cường hợp tác hơn nữa, với nhiều hình thức sáng tạo trao đổi thông tin, chuyển giao tri thức khoa học công nghệ, tổ chức hội thảo, giao lưu tọa đàm giữa các ban ngành, giữa cán bộ cấp cao hai bên… Những hoạt động này sẽ tăng cường sự hợp tác chặt chẽ giữa các nước, đồng thời tăng thêm sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa hai nước. Đặc biệt hiện nay, hai nước còn nhiều bất đồng trong việc giải quyết tranh chấp trong khai thác sông Mekong. Việt Nam cần xây dựng mối quan hệ mật thiết với Trung Quốc để cập nhật đầy đủ về tình hình các trạm thủy điện trên thượng nguồn sông Lan Thương- Mekong để có thể ứng phó linh động với những biến động xảy ra cho hoạt động kinh tế, môi trường và sinh hoạt của nhân dân. Việt Nam cũng cần có những hoạt động nghiên cứu về hậu quả của vấn đề xây dựng các đập thủy điện trên sông Mekong. Cần xây dựng sẵn những phương án đối phó với các tình huống tiêu cực có thể xảy ra.
Đối với Nhật Bản: Việt Nam cần tiếp tục thực hiện chính sách “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ đối ngoại, tăng cường quan hệ với tất cả các các nước, trung lập không đứng về phía một nước nào để giảm thiểu sự cạnh tranh giữa các nước lớn, tạo ra thế cân bằng lực lượng, giúp khu vực ổn định và phát triển thịnh vượng hơn. Ngược lại, nếu xử lý không tốt sẽ tăng tính cạnh tranh, đối đầu giữa các nước lớn, tăng khả năng ly tâm và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của Việt Nam những năm sắp tới. Việt Nam cần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn viện trợ của Nhật Bản, gắn kết ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và những ngành công nghiệp mũi nhọn phục vụ cho công nghiệp hóa đất nước như công nghiệp chế tạo và các ngành công nghiệp phụ trợ. Việt Nam cần tận dụng cơ hội là quốc gia đồng thời tham gia Cơ chế Hợp tác Kinh tế Toàn diện Khu vực ASEAN (RCEP) và Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) duy nhất trong tiểu vùng để thu hút đầu tư từ Nhật Bản. Về an ninh – quốc phòng, Việt Nam cần tận dụng sự hỗ trợ của Nhật Bản và tăng cường hợp tác với Nhật Bản trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng để nâng cao tiềm lực quốc phòng. Nhật Bản xem “tăng trưởng xanh” là một từ khóa trong quan hệ hợp tác Nhật Bản – Mekong trong thập kỷ tới. Do đó, Việt Nam cần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay ODA và vốn hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản trong lĩnh vực này để nâng cao năng lực bộ máy, cải cách chính sách y tế và phúc lợi xã hội, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Cùng với đó, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc bảo vệ môi trường, xây dựng các thành phố sử dụng công nghệ “xanh, sạch” để phát triển một cách bền vững và tận dụng sự hỗ trợ của Nhật Bản, kêu gọi, đề xuất những dự án liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước ven sông Mekong.
—————————
Chú thích:
(1) “Lưu vực sông Mê Kông tại Việt Nam”, http://vnmc.gov.vn.
(2) “Hàng trăm thủy điện thượng nguồn Mekong đe dọa đồng bằng sông Cửu Long”, https://news.zing.vn
(3) “Đập trên hạ lưu sông Mê Kông: Cuộc khủng hoảng nước xuyên biên giới”, https://w.w.winternationaltivers.vn
Theo TẠP CHÍ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Tags: Đông Nam Á, Việt Nam và quốc tế, Sông Mekong