Chuyện ít người biết về thời trẻ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thuở ấu thơ, vườn nhà, vườn hàng xóm chính là chốn thiên đường của các thú chơi trốn tìm, bắt tổ chim, dàn trận đánh giặc giả của cậu bé Võ Nguyên Giáp cùng lũ trẻ học chữ Nho. Có lần cậu bị bố mắng, thậm chí còn bị đòn roi phải chui xuống gầm bàn thờ xin tha tội.

Bài viết của tác giả Trần Mạnh Thường, hội viên Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh, hiện giảng dạy ở ĐH Sân khấu Điện ảnh. Là đồng hương với đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Thường đã bỏ ra hàng chục năm để sưu tầm hình ảnh, tư liệu về đại tướng.

Quê tôi từ xa xưa đã lưu truyền trong dân gian câu dân ca “Tháng bảy nước chảy lên bờ”. Tháng bảy âm lịch là mùa lũ lụt quê tôi. Cậu bé Võ Nguyên Giáp cất tiếng khóc chào đời đúng mùa mưa lũ vào ngày 2 tháng 7 năm Tân Hợi, dương lịch là ngày 25/8/1911, trong một cái chòi cao cất tạm dưới gốc cây mít cổ thụ sau vườn nhà để tránh mưa to nước lớn.

Cậu bé Giáp sinh trưởng trong một dòng họ Võ rất lớn, có tiếng tăm tại làng An Xá, xã Lộc Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình). Gia đình cậu có bảy anh chị em nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại năm: 3 người con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho – người sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục.

Ngồi nhà thơ ấu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình.

Làng An Xá những ngày nông nhàn, có nghề thủ công truyền thống dệt chiếu cói nổi tiếng khắp vùng, dân gian đã có câu ca “Chiếu cói An Xá, nón lá Quy Hậu”. Cũng như bao làng quê khác, An Xá xanh mướt với bốn mùa với cam, quít, mít, ổi… Thấp thoáng trong những vườn cây ăn quả ấy là những ngôi nhà tranh vách đất, đầy ắp tiếng cười của con trẻ.

Nhà cậu bé Giáp cũng đầy quả ngọt, hoa thơm, đặc biệt là cây mít cổ thụ, đào tiên và hai cây khế ngọt. Ngày ngày cậu cùng lũ trẻ làng trèo cây hái quả. Mùa nào thức ấy, mẹ hái quả trong vườn đem bán ở chợ Thùi, chợ Tréo.

Thuở ấu thơ, vườn nhà, vườn hàng xóm chính là chốn thiên đường của các thú chơi trốn tìm, bắt tổ chim, trèo cây lấy quả, dàn trận đánh giặc giả của cậu bé Giáp cùng lũ trẻ học chữ Nho với cậu. Và có lần cậu đã bị thầy (bố) mắng, thậm chí còn bị đòn roi phải chui xuống gầm bàn thờ xin tha tội.

Hai cụ thân sinh của cậu Giáp là cụ Võ Quang Nghiêm và cụ Nguyễn Thị Kiên. Là nhà nho có uy tín trong vùng, cụ Nghiêm dạy chữ Hán nhưng khi phong trào học chữ quốc ngữ phát triển, cụ chuyển sang dạy chữ quốc ngữ cho thanh thiếu niên trong làng và bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Cụ Nghiêm tuy không phải là tiên chỉ của làng nhưng mỗi lần làng có việc tế lễ, đều mời cụ làm chủ tế.

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, do phải thu xếp việc nhà, chưa kịp tản cư cùng gia đình, cụ Nghiêm bị giặc Pháp bắt đưa về giam ở Huế. Cụ bị chúng tra tấn và chết ngay trong nhà lao Huế. Sau ngày đất nước thống nhất, con cháu đã tìm thấy và bốc mộ cụ đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy. Khác với cụ ông rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, giữ gìn nề nếp gia phong, cụ bà lại rất mực yêu thương, luôn đỡ lời cho con mỗi khi bị cụ ông mắng mỏ.

Gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu như nhà Khóa Uy, một Hoa kiều giàu sụ ở làng Tuy Lộc kề bên. Cậu bé Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc đi trả nợ. Suốt buổi cậu phải ngồi dưới thuyền, còn mẹ cậu phải đội thóc chạy lên chạy xuống bến giữa trời nắng chang chang.

Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đêm đêm cậu bé Giáp đã được mẹ kể về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ Chiếu cần vương kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô”.

Những tháng ngày theo lũ trẻ làng đánh khăng, đánh đáo, bơi lội bì bõm dưới dòng Kiến Giang qua đi, cậu bé Giáp trở thành học trò trường làng. Cậu cùng người em trai Võ Thuần Nho và dăm ba đứa bạn ngồi trên chiếu ê a: “Thiên – trời, địa – đất, cử – cất, tồn – còn, tử – con, tôn – cháu…”.

Cậu nhớ mãi những điều răn dạy trong sách “Ấu học tân thư”: “Tổ ta là Hồng Bàng/Triệu Thủy, Kinh Dương Vương/Sự tích thời Bắc thuộc/Mối nhục cũ khó quên”, đặc biệt là câu: “Ong tuy độc không đốt trong đàn/Hổ tuy ác không ăn đồng loại”. Những điều này đã có ảnh hưởng sâu sắc trong cả cuộc đời của tướng Giáp.

Lớn lên, xa lũ trẻ học trường làng, cậu lên học trường tổng ở làng Tuy Lộc, nơi có chợ Hôm nổi tiếng buôn bán tập nập. Ngày hai buổi sáng đi, chiều về, trưa ở lại cậu cùng người cháu họ ra chợ mua bánh ăn trừ bữa.

Ở chợ Hôm có ty rượu do Sica – một tên thực dân Pháp khét tiếng quỷ quyệt làm chủ. Để mua vui cho bọn Pháp và lý trưởng, chánh tổng vào những ngày tết Tây, quốc khánh của “nước mẹ đại Pháp”, thầy giáo trường tổng thường bắt bọn trẻ hát. Cậu Giáp thấy khó chịu khi thầy giáo khúm núm trước tên chủ ty rượu Pháp, mặc dù cậu được thầy quý mến vì học giỏi.

Học hết lớp đồng ấu, muốn học tiếp cậu bé Giáp phải rời trường tổng vào học lớp 3 trường huyện. Trường huyện cách nhà cậu khoảng 4-5 cây số, từ nhà lên trường huyện phải đi đò. Cậu Giáp đã nhiều lần theo mẹ đi chợ huyện bằng đò dọc. Cậu vui lắm, cảnh vật ở đây tuyệt đẹp. Đi giữa dòng Kiến Giang trong xanh, đôi bờ lớp tre xanh tỏa bóng, những vườn cau, vườn chuối trĩu quả, xen giữa là mái nhà tranh giản dị.

Lần này cậu cũng theo mẹ đi đò dọc, nhưng không phải đi chợ huyện như mọi ngày mà đi trọ học. Cậu Giáp buồn lắm, bởi vì cậu ngày ngày phải xa mẹ. Đò đã qua mũi Viết Thượng Phong, đò cập bến chợ huyện. Phố xá đông vui, sầm uất, tấp nập người qua lại nhưng lòng cậu vẫn nặng trĩu… Mẹ dẫn cậu đến nhà một người thân xin ở trọ. Trước lúc ra về, mẹ âu yếm bảo: “Con ở lại đây, ngoan, học giỏi, mai mốt thím (mẹ) lên đón con”.

Cậu Giáp không cầm được nước mắt òa khóc nức nở túm áo mẹ nằng nặc đòi theo về. Cậu chạy thẳng xuống đò. Mẹ đành cho cậu về theo. Về đến nhà, cậu không dám vào nhà ngay sợ thầy mắng. Cậu lủi thủi một mình sau vườn chờ mẹ vào thưa trước với thầy. Không thấy thầy la rầy gì lại thân mật gọi cậu vào thế rồi hôm sau cậu thuận lên trường trọ học. Học lớp 3 trường huyện cậu nổi tiếng học giỏi nhất lớp. Tổng kết cuối năm cậu đứng đầu.

Học xong lớp 3 cậu phải xuống thị xã Đồng Hới học tiếp. Đồng Hới thuộc tỉnh lỵ Quảng Bình, cách làng An Xá của cậu trên 20 cây số, nằm bên bờ Nhật Lệ trong xanh với thành cổ bao quanh từ thời Gia Long và được xây lại bằng gạch thời Minh Mạng.

Những năm học ở thị xã Đồng Hới, cậu Giáp ở trọ nhà người quen của cụ Nghiêm. Cậu được gia chủ quý mến coi như con cháu trong nhà, không lấy tiền trọ, được học với nhà sư phạm có tiếng, thầy giáo Đào Duy Anh, người mà sau này trở thành một học giả, một nhà nghiên cứu văn hóa, giáo sư sử học, một nhà văn có tài.

Cậu Giáp người nhỏ bé, nhưng đẹp trai, khôi ngô tuấn tú, nước da trắng như con gái thành phố. Cậu được ngồi bàn đầu với các bạn gái, nên bị bạn bè trêu chọc. Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn đứng đầu lớp. Tại kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Về làng cậu được dân làng nể trọng, gia đình rất tự hào về cậu.

Năm 13 tuổi cậu Giáp lên đường vào Huế ứng thi. Ngày ấy học trò các tỉnh Trung kỳ muốn học lên bậc trung học phải thi vào trường quốc học Huế. Ngày thi đã đến, nhưng chủ quan cho mình là thủ khoa của tỉnh, cậu tin chắc mình sẽ đỗ. Tuy nhiên, lần thi tuyển lần ấy cậu bị trượt. Cậu buồn bã trở về quê trong niềm tiếc nuối, nhưng rồi cậu tự nhủ thua keo này ta bày keo khác, ngày đêm đèn sách chờ kỳ thi tới.

Mùa hè năm sau, 1925, cụ Nghiêm thân chinh đưa cậu vào Huế, tìm chỗ trọ học để ôn thi. Rút kinh nghiệm ngã ngựa lần trước, kỳ thi lần này cậu làm bài vở cẩn thận hơn, kết quả cậu đỗ vào loại khá.

Là một học sinh xuất sắc của trường Quốc học Huế, tháng nào anh Giáp cũng đứng đầu lớp. Có một tháng bỗng dưng anh xuống đứng thứ nhì, bạn bè, thầy giáo rất ngạc nhiên. Nhưng đối với Võ Nguyên Giáp, giờ đây việc học hành không phải là điều mà anh quan tâm duy nhất.

Anh bước vào cổng trường Quốc học Huế đúng vào lúc diễn ra phong trào đấu tranh của nông dân, các tầng lớp trí thức, học sinh Trung kỳ đòi giảm sưu cao, thuế nặng, đòi nhà cầm quyền Pháp trả tự do cho nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, đòi được để tang nhà yêu nước cách mạng Phan Chu Trinh. Võ Nguyên Giáp nhanh chóng hòa nhập ngay vào phong trào đấu tranh đó.

Tại đây, Võ Nguyên Giáp có nhiều người bạn hoạt động trong phong trào học sinh như các anh Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều), Nguyễn Thúc Hào… Đặc biệt là Nguyễn Chí Diểu, người bạn lớn hơn anh 3 tuổi, gia đình nông dân nghèo, quê ở Phú Mậu, Thừa Thiên. Hai người tuy mới quen nhưng rất thân thiết, không chỉ vì chung cảnh ngộ học trò nghèo mà giữa 2 người cùng chung một chí hướng.

Nguyễn Chí Diểu thường chia sẻ với Võ Nguyên Giáp về sự bất bình trước nền giáo dục thực dân nhằm tạo ra những tên tay sai đắc lực phục vụ cho “mẫu quốc”. Cũng trong trường Quốc học Huế, học sinh Giáp còn được các thầy đầy tâm huyết dạy dỗ, như thầy Võ Liêm Sơn, thầy Cao Xuân Huy, thầy Đặng Thai Mai…

Tháng 4/1927 tại trường Quốc học Huế diễn ra cuộc bãi khóa rầm rộ với quy mô lớn. Nguyễn Chí Diểu bị tên giám thị Pháp chú ý, coi là kẻ cầm đầu những cuộc đấu tranh bãi khóa ở trường. Nhân một hôm thi môn toán, tên giám thị gian giảo này đã vu cho Diểu “quay cóp” bài của bạn và tức khắc đuổi Diểu ra khỏi trường.

Võ Nguyên Giáp và các bạn cùng chí hướng bất bình trước việc vu oan, giá họa đã làm đơn yêu cầu nhà trường hủy quyết định đuổi học Diểu. Nhưng đơn đã bị nhà trường trả lại. Ngay sau đó, Võ Nguyên Giáp liền bàn với Nguyễn Khoa Văn tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản đối việc Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi khóa của học sinh Trường Quốc học Huế lan rộng ra khắp các trường ở Huế và phát triển thành cuộc tổng bãi khóa.

Trước tình hình đó nhà cầm quyền Pháp tại Huế được sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh mật thám Trung Kỳ Leon Sogny, Hiệu trưởng và Tổng giám thị Trường Quốc học Huế lúc đó là Bourotte và Harter huy động toàn bộ lực lượng giám sát mọi hoạt động của học sinh trong trường. Nhiều nam nữ sinh Huế bị bắt bớ giam cầm. Nhưng do áp lực của công luận, sau một tuần nhà đương cục Pháp phải nhượng bộ thả một số học sinh bị bắt nhưng kiên quyết đuổi một số người bị chúng coi là kẻ cầm đầu, trong đó có các anh Nguyễn Chí Diểu, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Khoa Văn…

Lúc này Võ Nguyên Giáp không trở về quê ngay, anh lang thang vào Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định… vừa thăm thú bạn bè, vừa nghe ngóng tình hình. Trong thời gian ở Quảng Nam anh đến viếng nhà thờ cụ Phan Châu Trinh mới được lập ở Đà Nẵng, rồi trở về quê trong tâm trạng bế tắc.

Bỗng một hôm Nguyễn Chí Diểu lặn lội từ Huế về làng An Xá tìm gặp Võ Nguyên Giáp. Diểu mang theo một tập tài liệu về “Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới” và một số văn kiện cuộc họp của “Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội” ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Anh Giáp đọc rất xúc động.

Nguyễn Chí Diểu cho Giáp biết sau khi bị đuổi học Diểu đã tham gia Tân Việt cách mạng Đảng hiện có cơ sở ở Huế, đồng thời cho Giáp xem chương trình, điều lệ của Tân Việt Cách mạng Đảng. Sau đó, anh Giáp được kết nạp vào Đảng Tân Việt.

Mùa hè năm 1928, Võ Nguyên Giáp trở lại Huế. Anh bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Tại Huế, Nguyễn Chí Diểu giới thiệu anh Giáp đến làm việc ở Quan Hải tùng thư, một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương, trụ sở đặt ở phố Đông Sa. Sáng lập viên là Đào Duy Anh.

Võ Nguyên Giáp là thư ký của nhà xuất bản, anh sinh hoạt trong một tiểu tổ bí mật của Đảng Tân Việt do Đào Duy Anh làm tổ trưởng. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” và báo “Người cùng khổ” (Le Paria) từ Pháp gửi về.

Từ năm 1929, Võ Nguyên Giáp trở thành một trong những thành viên trong nhóm hạt nhân của Đảng Tân Việt. Anh tích cực vận động cho tổ chức này gia nhập Đảng Cộng sản. Với tư cách là Tổng biên tập báo Tiếng dân, Đào Duy Anh giới thiệu Võ Nguyên Giáp với cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Võ Nguyên Giáp làm biên tập viên cho báo Tiếng dân, tờ báo đầu tiên ở Trung Kỳ có xu hướng tiến bộ do cụ Huỳnh Thúc Kháng chủ trương ra mắt bạn đọc vào tháng 7/1928. Qua tờ báo, Võ Nguyên Giáp viết bài tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác. Vì vậy, chính quyền thực dân ở đây ngày đêm theo dõi, giám sát từng hoạt động của anh.

Xô viết Nghệ – Tĩnh nổ ra, thực dân Pháp ra sức khủng bố trắng. Ngày 25/10/1930, lúc vừa tròn 19 tuổi, Võ Nguyên Giáp bị chính quyền thực dân bắt giam cùng một số người, trong đó có thầy Đặng Thai Mai, nữ sinh Nguyễn Thị Quang Thái, người sau đó ít lâu trở thành người vợ thân yêu của Võ Nguyên Giáp (em nhà cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai) và nhiều bạn học Trường Quốc học Huế. Anh bị kết án hai năm tù giam tại nhà lao Thừa Phú.

Không tra khảo được gì, chúng liền nhốt anh vào xà lim suốt 15 ngày. Cuối năm 1931, do Hội Cứu tế Đỏ Pháp đấu tranh, đòi thả chính trị phạm, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương phải nhượng bộ tha một số tù chính trị. Thầy Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Quang Thái và một số anh em khác được thả. Võ Nguyên Giáp bị đưa về quản thúc ở quê nhà An Xá, hàng tháng phải trình diện với quan huyện.

Ít lâu sau, anh tìm cách ra Vinh (Nghệ An) để thực hiện chí hướng của mình. Ở Vinh, anh tìm đến thầy Đặng Thai Mai và được thầy giúp đỡ tìm kiếm việc làm tạm thời. Năm 1932, thầy Đặng Thai Mai chuyển ra dạy học ở Hà Nội, Võ Nguyên Giáp cũng ra theo thầy.

Rời ghế nhà trường từ năm Thành chung thứ hai, giờ đây tại Hà Nội, Võ Nguyên Giáp quyết định dành 10 tháng để học, dự thi lấy bằng tú tài phần nhất với tư cách thí sinh tự do và đã đỗ hạng ưu. Từ đây Võ Nguyên Giáp bắt đầu dạy học tại trường Thăng Long cùng với thầy Đặng Thai Mai. Học trò của thầy Mai, thầy Giáp sau này nhiều người đỗ đạt cao, trở thành những nhà trí thức có uy tín và có người trở thành cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước.

Năm 1936, ở Pháp, Mặt trận Bình dân lên nắm quyền, buộc chính quyền thuộc địa ở Đông Dương phải thực hiện một số cải cách dân chủ. Võ Nguyên Giáp đã tham gia nhiều cuộc đấu tranh công khai của Đảng. Trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, anh viết cho nhiều tờ báo của Đảng bằng tiếng Việt và tiếng Pháp và trở thành Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ. Sức làm việc của Võ Nguyên Giáp rất kỳ lạ, anh có thể viết suốt 24 giờ liền cho toàn bộ một số báo “Le Travail” để hôm sau đưa đến nhà in, kịp thời phát hành.

Cuối năm 1939, Chính phủ bình dân Pháp bị đánh đổ, nước Pháp nói riêng và thế giới nói chung đang đứng trước nguy cơ đe dọa của chủ nghĩa phát xít. Ở Đông Dương, nhà cầm quyền thực dân đàn áp phong trào cách mạng được dịp trỗi dậy. Ngày đêm chúng lùng sục, bắt bớ tra tấn nhiều chiến sĩ cộng sản. Chính vào lúc này, Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Đảng Cộng Sản Đông Dương, khuyên Võ Nguyên Giáp nên ra nước ngoài, nơi anh có dịp gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, người mà anh từng ngưỡng mộ.

Trong thời gian dạy học ở trường Thăng Long, Võ Nguyên Giáp xây dựng gia đình với người em ruột của nữ chiến sĩ cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai là Nguyễn Thị Quang Thái, người mà anh quen trên chuyến xe lửa Vinh – Huế. Gặp Quang Thái lần đầu, anh Giáp có ngay cảm tình đặc biệt bởi dáng vẻ hiền dịu nhưng không kém phần kiên nghị, bất khuất, đôi mắt thông minh.

Ngày Quang Thái vào học trường Đồng Khánh, Huế, tình yêu giữa hai người nẩy nở và kể từ đó, người thiếu nữ ấy đã bước vào đời anh. Và họ gặp nhau trong nhà tù đế quốc. Cũng chính trong thời gian ở tù, Võ Nguyên Giáp càng hiểu Quang Thái hơn.

Mùa hè 1940, anh lên đường ra nước ngoài để lại người bạn đời, người đồng chí, Nguyễn Thị Quang Thái và một cháu gái mới sinh là Võ Hồng Anh, sau này trở thành nữ tiến sĩ Vật lý xuất sắc. Chị Thái hẹn, khi con cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt động. Nhưng cả hai không ngờ lần chia tay này cũng là lần vĩnh biệt. Chị Thái bị giặc Pháp bắt giam và qua đời trong ngục tù.

Như một định mệnh, đến Vân Nam (Trung Quốc), Võ Nguyên Giáp được gặp ngay Nguyễn Ái Quốc, lúc này đã mang tên Hồ Chí Minh. Chỉ sau một thời gian ngắn, Nguyễn Ái Quốc đã thấy Võ Nguyên Giáp là người cần cho chặng đường cách mạng sắp tới. Người liên hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc và cử anh đi học quân sự tại căn cứ địa Diên An.

Trên đường tới Diên An, anh được người gọi quay lại vì tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp. Nguyễn Ái Quốc nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón thời cơ.

Năm 1941 đúng dịp Tết nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Hồ Chí Minh trở về Cao Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Pó, Hồ Chí Minh tiên đoán cách mạng sẽ thành công vào năm 1945.

Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh trao cho Võ Nguyên Giáp xây dựng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, mà như lời tiên đoán của người: “Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó sẽ đi suốt từ Bắc chí Nam, khắp đất nước Việt Nam”. Người đã thấy trước từ đội quân nhỏ bé này, đội quân cách mạng do Võ Nguyên Giáp đứng đầu sẽ ra đời làm nhiệm vụ lịch sử chiến đấu giải phóng dân tộc…

Theo VNEXPRESS

Tags: ,