Bẻ gãy luận điệu xảo trá của Trung Quốc về Công hàm Phạm Văn Đồng

Công hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có ý nghĩa công nhận chủ quyền mà Trung Quốc tuyên bố. Nguyên tắc của luật pháp quốc tế là không được phép suy diễn một cách chủ quan, mà phải tìm ý định thực sự của người viết và ký văn kiện trong phạm vi những câu chữ được dùng trong văn kiện.

Bẻ gãy luận điệu xảo trá của Trung Quốc về Công hàm Phạm Văn Đồng

Ngày 17/4/2020, Trung Quốc gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để khẳng định chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Trong đó, Trung Quốc khẳng định chính phủ Việt Nam cũng đã công nhận điều này thông qua công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Chiều 23/4, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Ngô Toàn Thắng nói với báo chí: Việt Nam phản đối các nội dung trong công hàm ngày 17/4 của Trung Quốc gửi Liên Hợp Quốc cũng như các công hàm trước đó nêu các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông. Ông Thắng khẳng định các công hàm chứa đựng những yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa không phù hợp luật pháp quốc tế, trái với quy định của UNCLOS.

Ngày 30/3/2020, Việt Nam đã lưu hành công hàm tại Liên Hợp Quốc để bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc, như đã được nêu trong nhiều văn bản gửi Liên Hợp Quốc và các cơ quan quốc tế liên quan. Việt Nam cũng đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc. Ngày 10/4/2020, Việt Nam lưu hành công hàm để khẳng định lập trường trong vấn đề Biển Đông với các nước liên quan khác. Ông Ngô Toàn Thắng khẳng định: Là quốc gia ven biển, Việt Nam được hưởng đầy đủ các vùng biển tại Biển Đông được xác lập trên cơ sở UNCLOS; mọi yêu sách biển trái với quy định UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam là không có giá trị.

.

Phỏng vấn PGS-TS Vũ Thanh Ca, chuyên gia về Luật Biển quốc tế ĐH Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ, Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam.

Ngày 4/9/1958, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi chung là Trung Quốc) ban hành bản tuyên bố về hải phận. 10 ngày sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi một công hàm, thể hiện sự ủng hộ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đối với tuyên bố hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.

Đây là một dữ kiện lịch sử, pháp lý mà Trung Quốc đã và đang sử dụng để khẳng định không có quốc gia nào phản đối yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên, sự thật của lịch sử chưa bao giờ giống như những gì Bắc Kinh tuyên truyền.

Bản tuyên bố đơn phương của Trung Quốc

Phóng viên: Xin ông tóm tắt những điểm chính liên quan đến tuyên bố của phía Trung Quốc vào năm 1958 liên quan đến chủ quyền Biển Đông?

PGS-TS Vũ Thanh Ca: Bản tuyên bố của Trung Quốc bao gồm bốn điều. Thứ nhất, bề rộng hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. Điều này áp dụng cho những nơi mà nước này gọi là: “Lãnh thổ Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo duyên hải, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) cùng các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc”.

Thứ hai, Trung Quốc xác định các đường cơ sở của hải phận dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi được xác định bởi “các đường thẳng nối liền mỗi điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là hải phận của Trung Quốc…”.

Thứ ba, Trung Quốc yêu cầu các nước không được tự ý xâm nhập hải phận và vùng trời phía trên hải phận nước này. Cuối cùng, Trung Quốc tuyên bố điều (2) và (3) kể trên cũng áp dụng cho các điểm mà Trung Quốc gọi là: Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa…

Vì sao Trung Quốc ra tuyên bố về chủ quyền?

– Động lực nào khiến Trung Quốc ra tuyên bố chủ quyền vào năm 1958 như nêu trên, thưa ông?

– Cho tới đầu thế kỷ 20, lãnh hải (hải phận) của quốc gia ven biển được quy định là ba hải lý tính từ đường cơ sở. Đến đầu thế kỷ 20, một số quốc gia muốn mở rộng giới hạn chủ quyền quốc gia ven biển cũng như giới hạn về quyền sở hữu và khai thác tài nguyên trong vùng biển ven bờ của quốc gia. Từ cuối những năm 1940 của thế kỷ 20, một số nước đã mở rộng lãnh hải tới 12 hải lý.

Hội nghị về Luật Biển Liên Hợp Quốc lần thứ nhất (UNCLOS I) tổ chức ở Geneva, Thụy Sĩ từ ngày 24/2 đến 27/4/1958. Hội nghị này xuất hiện mâu thuẫn trong quá trình đàm phán: Một số nước như Mỹ, Anh có quan điểm giữ nguyên quy định chiều rộng lãnh hải ba hải lý. Trái lại, nhiều nước khác, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển khác, đề nghị mở rộng chiều rộng lãnh hải tới 12 hải lý. Kết quả, công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải 1958 chưa quy định được chiều rộng lãnh hải.

– Được biết, Trung Quốc không được mời dự hội nghị về Luật Biển Liên Hợp Quốc lần thứ nhất năm 1958. Có phải vì vậy mà họ đơn phương ra tuyên bố về chủ quyền biển, trong đó có yêu cầu về chiều rộng hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý?

– Vào thời kỳ đó, có những vấn đề rất cấp bách ở Trung Quốc liên quan tới quy định về chiều rộng lãnh hải của họ. Trong giai đoạn chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), vùng lãnh thổ Đài Loan có nguy cơ bị Trung Quốc tấn công. Để bảo vệ Đài Loan, Mỹ đã điều Hạm đội 7 vào eo biển Đài Loan và Trung Quốc đã mạnh mẽ phản đối việc này.

Sau khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất (tháng 9/1954), khủng hoảng lần hai tiếp tục xảy ra vào tháng 8/1958. Trung Quốc tái diễn nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo hiệp định phòng thủ chung với chính quyền Đài Loan, Mỹ điều hai tàu chiến đến eo biển Đài Loan. Hai tàu này đã hộ tống các tàu Đài Loan tới khoảng cách ba hải lý tính từ bờ của đảo Kim Môn. Trung Quốc cho rằng Mỹ vi phạm chủ quyền của mình, trong khi Mỹ cho rằng Mỹ chỉ hoạt động trong khu vực ngoài lãnh hải của Trung Quốc và tuân thủ luật pháp quốc tế. Một phần vì hội nghị về Luật Biển Liên Hợp Quốc lần thứ nhất không mời Trung Quốc, phần nữa vì muốn ngăn chặn các nước tiếp cận gần bờ biển của mình (trong phạm vi 12 hải lý), Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải.

Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là ngoại giao

– Sau tuyên bố của Trung Quốc vào tháng 9/1958, Chính phủ VNDCCH phản ứng ra sao?

– Ngày 14/9/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi một công hàm đến Thủ tướng Chu Ân Lai của Hội đồng Nhà nước Trung Quốc để khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ Việt Nam đối với tuyên bố hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.

Theo đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4/9/1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể”.

– Trong bối cảnh lịch sử như ông đã trình bày, có thể hiểu nội dung công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như thế nào?

– Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm với mục đích ngoại giao, thể hiện sự đoàn kết về mặt chính trị và ủng hộ lập trường hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Các quốc gia trong phe xã hội chủ nghĩa như Liên Xô cũng làm như vậy. Đây là động thái hoàn toàn bình thường của các nước xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh, đối đầu với phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu.

Như vậy, bản chất công hàm Phạm Văn Đồng là một văn kiện ngoại giao đơn phương với mục đích rất đơn giản: Thể hiện sự đoàn kết với Trung Quốc chống lại Mỹ và các nước thuộc phe tư bản chủ nghĩa.

Tóm lại, hiểu được bối cảnh quốc tế khi ra đời của tuyên bố từ phía Trung Quốc về hải phận và công hàm Phạm Văn Đồng thì mới có đủ cơ sở để đánh giá ý định của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chính phủ VNDCCH khi ban hành công hàm này. Từ đó mới có thể đánh giá giá trị pháp lý của công hàm và ảnh hưởng của nó tới chủ quyền Việt Nam.

Tính pháp lý của công hàm

– Liên quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng (tên gọi được đăng trên báo Nhân Dân ngày 22/9/1958), luật pháp quốc tế quy định như thế nào về tính pháp lý của văn kiện ngoại giao?

– Giá trị pháp lý của Công hàm Phạm Văn Đồng không phụ thuộc vào việc gọi văn kiện này là công hàm hay công thư. Một nguyên tắc của luật pháp quốc tế là khi xem xét một văn kiện được ký kết, cần phải tìm hiểu ý định thực sự của người ký văn bản trong phạm vi các câu chữ của văn kiện. Đây chính là các nguyên tắc “trong bốn góc” và “cái đặc thù làm chủ cái tổng quát”.

Theo nguyên tắc này, không được phép suy diễn một cách chủ quan, mà phải tìm ý định thực sự của người viết và ký văn kiện trong phạm vi những câu chữ được dùng trong văn kiện (trong bốn góc của các trang giấy chứa văn kiện).

– Quy định đó áp dụng giải thích Công hàm Phạm Văn Đồng như thế nào?

– Có thể thấy Công hàm Phạm Văn Đồng gồm hai đoạn, trong đó đoạn thứ nhất chỉ nói về việc ghi nhận và tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc. Cụ thể: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4/9/1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”.

Trong đoạn thứ hai, văn kiện đã làm rõ hơn. Cụ thể: “Triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể”. Như vậy, cái đặc thù “12 hải lý trên mặt bể” đã làm rất rõ Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ nói về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc chứ không nói vấn đề khác.

Dựa vào nội dung và bối cảnh ra đời (mà tôi đã phân tích trong kỳ 1 của loạt bài này), Công hàm Phạm Văn Đồng đơn giản là một văn kiện ngoại giao đơn phương với từ ngữ rất khéo léo. Mục đích là để thể hiện sự ủng hộ của Chính phủ VNDCCH đối với tuyên bố về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc nhưng tuyệt nhiên không thể hiện sự công nhận của phía Việt Nam đối với chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều học giả, luật sư về công pháp quốc tế trong và ngoài nước đồng ý với luận điểm này.

Việt Nam thực thi chủ quyền liên tục…

– Dù Công hàm Phạm Văn Đồng không thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng lại không phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Điều này có gây khó khăn cho việc khẳng định quá trình thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không?

– Tôi khẳng định là hoàn toàn không! Ngày 2/9/1945, nước VNDCCH được thành lập, là một nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tuyên bố chủ quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam (bao gồm Trường Sa, Hoàng Sa).

Ngày 6/3/1946, Chính phủ VNDCCH ký với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946. Theo đó, VNDCCH là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, sau đó Pháp chủ trương không thực hiện một số thỏa thuận trong Hiệp định sơ bộ và Tạm ước Việt Pháp, trái lại còn cố ý gây chiến để tái xác lập chế độ thực dân trên lãnh thổ Việt Nam. Chiến tranh giữa hai bên xảy ra vào cuối năm 1946 và kéo dài tới giữa năm 1954.

Căn cứ vào Hiệp định sơ bộ, vì VNDCCH nằm trong khối Liên hiệp Pháp, trong thời gian từ cuối năm 1946 tới đầu 1947, Pháp đã thực thi quyền đại diện để bảo vệ chủ quyền của VNDCCH tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Từ cuối năm 1946, Pháp đã chủ trương thành lập một chính phủ khác trên đất Việt Nam để đối trọng VNDCCH. Ngày 5/6/1948, Hiệp ước vịnh Hạ Long được ký kết và ngày 8/3/1949, với sự ký kết Hiệp định Élysée, Quốc gia Việt Nam (QGVN), một quốc gia độc lập thuộc Liên hiệp Pháp, được thành lập. Đến đầu năm 1950 đã có 35 quốc gia công nhận QGVN.

Pháp đã chính thức trao quyền quản lý toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho QGVN. Tháng 4/1949, hoàng thân Nguyễn Phúc Bửu Lộc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ QGVN, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 10-1950, việc quản lý Hoàng Sa và Trường Sa được Pháp chính thức bàn giao cho QGVN.

Năm 1949, Pháp đã gửi đơn xin đăng ký các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Tổ chức Khí tượng Thế giới và đã được chấp nhận. Các trạm khí tượng này là trạm Phú Lâm với số hiệu 48859; trạm Hoàng Sa với số hiệu 48860; trạm Ba Bình với số hiệu 48419.

… Và được thế giới công nhận

– Việc khẳng định chủ quyền ở Trường Sa, Hoàng Sa của QGVN được thế giới công nhận như thế nào, thưa ông?

– Năm 1951, QGVN đã được mời tham dự Hội nghị San Francisco về chấm dứt chiến tranh tại châu Á – Thái Bình Dương và lập quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Hội nghị có 51 nước tham gia. Tại hội nghị, đại diện Liên Xô là ông Andrei Gromyko đã đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Đề nghị này đã bị hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, ba phiếu thuận.

Tại hội nghị, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao QGVN Trần Văn Hữu tuyên bố: “Việt Nam rất là hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình này. Và cũng vì vậy cần phải thành thật lợi dụng tất cả cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.

Tuyên bố này của Thủ tướng Trần Văn Hữu không bị quốc gia nào phản đối hay bảo lưu. Như vậy, Hội nghị San Francisco coi như đã chính thức công nhận việc QGVN khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như thu hồi hai quần đảo này từ Nhật Bản.

– Phía Trung Quốc giai đoạn đó có lên tiếng phản đối tuyên bố của QGVN không?

– Trong hòa ước giữa Trung Hoa Dân Quốc và Nhật Bản ngày 28/4/1952, Trung Hoa Dân Quốc ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San Francisco nhưng không yêu cầu Nhật Bản giao lại hai quần đảo này. Việc này là bằng chứng góp phần cho thấy phía Trung Quốc đã gián tiếp thừa nhận tuyên bố chủ quyền của QGVN đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa tại Hội nghị San Francisco.

Như vậy, trong thời gian từ năm 1945 tới 1954, trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam có hai chính phủ của Việt Nam và hai chính phủ này đều có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. VNDCCH là một thành viên thuộc khối Liên hiệp Pháp, được Pháp đại diện để thực thi chủ quyền; QGVN cũng là một thành viên thuộc khối Liên hiệp Pháp, được Pháp chuyển giao chủ quyền và đã khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo.

Tuyên bố của QGVN tại Hội nghị San Francisco không có nước nào phản đối và bảo lưu. Đó là bằng chứng cho thấy Việt Nam đã khẳng định chủ quyền rõ ràng và minh bạch và đã tiếp nhận hai quần đảo này từ Nhật Bản. Việc Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền một cách liên tục từ giai đoạn 1954-1975 và cả giai đoạn sau đó.

Việt Nam thực thi chủ quyền liên tục 1954-1975…

– Ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneva được ký. Sự kiện này ảnh hưởng thế nào đến việc thực thi chủ quyền với Trường Sa, Hoàng Sa?

– Theo Hiệp định Geneva, lãnh thổ Việt Nam tạm chia thành hai vùng: Miền Bắc do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) kiểm soát, miền Nam do Liên hiệp Pháp và các lực lượng thân Pháp, trong đó có Quốc gia Việt Nam (QGVN), kiểm soát. Ranh giới tạm thời là vĩ tuyến 17.

Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm quốc trưởng của QGVN. Sau đó, QGVN đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa (VNCH) do Ngô Đình Diệm làm tổng thống. Năm 1956, quân đội VNCH đã trú đóng ở phần phía tây quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Như vậy, vào năm 1958, chính VNCH (chứ không phải VNDCCH) là thực thể chính trị duy nhất thực sự thực thi chủ quyền với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Vậy nên, dù công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể hiện sự phản đối trực tiếp tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo (vì VNDCCH không phải là thực thể chính trị thực thi chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) nhưng sự không phản đối đó không tạo ra bất cứ cơ sở pháp lý nào để nói rằng Việt Nam đã mặc nhiên công nhận chủ quyền của Trung Quốc.

– Xin ông giải thích rõ hơn về tính chính danh của VNCH trong việc thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa?

– Theo Công ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia, “một quốc gia là một chủ thể của luật quốc tế, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về: có dân cư ổn định, có lãnh thổ xác định, có chính phủ và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế” và “sự tồn tại về chính trị của các quốc gia độc lập với sự công nhận của các quốc gia khác”.

Giai đoạn 1954-1975, chiếu theo Công ước Montevideo 1933, trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại hai thực thể chính trị với tư cách quốc gia: VNDCCH và VNCH. Vấn đề quan trọng nằm ở chỗ: Dù các nước có tuyên bố công nhận hay không công nhận tư cách quốc gia của VNDCCH hay VNCH thì điều đó cũng không làm ảnh hưởng tư cách quốc gia của họ. Như vậy, theo luật pháp quốc tế, VNCH hoàn toàn có tư cách quốc gia để thực thi chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, còn VNDCCH thì trong thời gian đó không có thẩm quyền với hai quần đảo này.

Như vậy, VNDCCH không nhất thiết phải tuyên bố phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc năm 1958 và sự im lặng của VNDCCH trong thời gian này không làm yếu đi danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo.

… và từ 1975 cho đến nay

– Từ năm 1975 đã có sự thay đổi về chính quyền trên lãnh thổ Việt Nam. Việc thay đổi này có quan hệ thế nào với việc thực thi chủ quyền theo luật?

– Công ước Montevideo 1933 quy định sự thay đổi chính quyền không làm thay đổi quốc gia. Theo quy định của tập quán quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp Quốc (Liên Hợp Quốc), việc lựa chọn một chính quyền để đại diện cho toàn thể nhân dân trên một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào đó là quyền tự quyết của nhân dân sống trong quốc gia và vùng lãnh thổ đó. Khi trên một lãnh thổ quốc gia có một chính quyền bị thay thế bởi một chính quyền khác, chính quyền mới sẽ kế thừa các di sản của chính quyền trước đó, kể cả lãnh thổ, các hiệp ước, tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế, các khoản nợ…

Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam từ sau khi ra đời Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào năm 1960 và kết thúc bằng chiến thắng ngày 30/4/1975 và thành lập Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN) thực chất là việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam trong việc lựa chọn chế độ chính trị theo đúng các quy định của luật pháp quốc tế. Sau 30/4/1975, CHMNVN đã thay thế VNCH và trở thành thể chế chính trị duy nhất đại diện cho nhân dân miền Nam.

Vì vậy, CHMNVN có quyền và trong thực tế đã kế thừa một cách hợp pháp chủ quyền của VNCH đối với hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Chính Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận CHMNVN là đại diện duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Do vậy, Trung Quốc cũng đã gián tiếp công nhận rằng theo luật pháp quốc tế, sau khi tiếp nhận sự đầu hàng của VNCH, CHMNVN đã chính thức kế thừa chủ quyền đối với hai quần đảo nói trên.

– Sự chuyển giao chủ quyền sang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (chính là Việt Nam ngày nay) thực hiện ra sao?

– Năm 1976 đã diễn ra cuộc tổng tuyển cử, thống nhất đất nước Việt Nam. Toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ còn một quốc gia với chính quyền duy nhất là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó cũng là dấu mốc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ CHMNVN (chứ không phải từ VNDCCH, vì thực thể chính trị này không có thẩm quyền và không được giao quản lý hai quần đảo.)

Như vậy, việc kế thừa chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thực hiện theo đúng luật pháp quốc tế. Điều đó một lần nữa khẳng định rằng Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị pháp lý và không ảnh hưởng tới chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Mưu đồ của Trung Quốc

– Gần đây Trung Quốc liên tục đưa công hàm lên Liên Hợp Quốc, trích dẫn Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 và cáo buộc Việt Nam vi phạm nguyên tắc Estoppel. Ông lý giải thế nào về điều này?

– Tôi có thể khẳng định ngay Việt Nam không vi phạm nguyên tắc Estoppel. Estoppel là một nguyên tắc của luật pháp quốc tế, có nghĩa là một chủ thể luật pháp (người hoặc cơ quan, tổ chức, quốc gia) không được phép nói hoặc hành động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hành động trước đó.

Có nhiều học giả đã bàn luận về việc áp dụng nguyên tắc Estoppel cho trường hợp Công hàm Phạm Văn Đồng. Đáng kể nhất là thảo luận của tiến sĩ-luật sư Từ Đặng Minh Thu. Theo đó, căn cứ vào thực tiễn quốc tế và các án lệ của các tòa án quốc tế, muốn chứng minh Việt Nam vi phạm nguyên tắc Estoppel thì phải chứng minh rằng Công hàm Phạm Văn Đồng có ý định và nói rõ ràng rằng chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc Trung Quốc; và điều này phải được nói một cách liên tục và có hệ thống.

Tuy nhiên, như tôi đã phân tích ở hai kỳ trước, Công hàm Phạm Văn Đồng ngoài việc ủng hộ quan điểm vùng lãnh hải rộng 12 hải lý thì hoàn toàn không đả động đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thêm nữa, VNDCCH càng không nói một cách liên tục và có hệ thống rằng chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc Trung Quốc. Mặt khác, hai quần đảo này lúc đó thuộc VNCH quản lý, thế nên VNDCCH không có quyền có những tuyên bố về chủ quyền với hai quần đảo.

– Trung Quốc có mưu đồ gì khi năm lần bảy lượt đưa Công hàm Phạm Văn Đồng lên Liên Hợp Quốc?

– Trung Quốc cố tình suy diễn Công hàm Phạm Văn Đồng để tranh giành lợi thế, cố tình bẻ cong sự thật, bẻ cong pháp luật, kể cả Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 mà nước này cũng là thành viên. Tuy nhiên, phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã nhiều lần gửi công hàm, điển hình là Công hàm số A/72/692 ngày 30/1/2018 để phản đối Trung Quốc và nêu rõ lập trường của Việt Nam.

Giới quan sát trong và ngoài nước có nhiều bài viết về Công hàm Phạm Văn Đồng. Hầu như tất cả bài viết đó đều dùng những lập luận của luật pháp quốc tế để làm rõ tính pháp lý của Công hàm Phạm Văn Đồng, đồng thời chứng minh sự liên tục của chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, làm thất bại âm mưu của Trung Quốc.

– Xin cám ơn ông.

Giá trị công hàm phải đặt trong bối cảnh cụ thể

Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là văn bản ngoại giao, nó có giá trị pháp lý về những vấn đề được nêu trong nội dung, đó là Việt Nam tôn trọng 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Công thư không đề cập chủ quyền lãnh thổ, vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa nên đương nhiên nó không có giá trị pháp lý trong vấn đề chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa.

Thứ hai, giá trị công thư cũng phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi cho Trung Quốc trong bối cảnh Hoàng Sa, Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa theo Hiệp định Genève 1954 mà Trung Quốc có tham gia. Do đó, tôi xin nói logic thông thường là bạn không thể cho người khác cái gì khi bạn chưa có được.

Ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, phát biểu trong cuộc họp báo quốc tế chiều 23/5/2014

.

Theo PHÁP LUẬT TPHCM

Tags: , , ,