Tư tưởng biện chứng của Hegel và sự kế thừa của triết học Marx

Triết học Hegel là một hệ thống đồ sộ, bao gồm nhiều lĩnh vực nhưng thành tựu to lớn nhất của triết học Hegel chính là phép biện chứng.

Tư tưởng biện chứng của Hegel và sự kế thừa của triết học Marx

Nghiên cứu lịch sử triết học trước Marx, chúng ta biết rằng triết học cổ điển Đức (từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX) là một trong những nền triết học phát triển cao, ảnh hưởng lớn tới triết học hiện đại, đặc biệt là triết học Marx. Và nói đến triết học cổ điển Đức, không thể không nói đến Hegel, nhà triết học lỗi lạc được xem đại diện tiêu biểu, xuất sắc nhất của triết học cổ điển Đức.

Engels đã nhận xét Hegel như sau: “Ông không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực ông xuất hiện như một người vạch thời đại”[i]. Còn Frederik C. Beiser[ii] thì cho rằng: “Dù yêu hay ghét Hegel, thật khó mà không biết đến ông, bởi tầm quan trọng lịch sử khổng lồ của đại triết gia này. Hầu hết mọi hình thức của triết học hiện đại đều chịu ảnh hưởng của ông hoặc là phản ứng chống lại ông. Điều đó không chỉ đúng cho chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa hiện sinh, mà cả cho Lý luận-phê phán, thông diễn học và triết học phân tích. Hegel vẫn đang là đường phân thủy của triết học hiện đại… Triết gia hiện đại muốn biết gốc rễ của mình, sớm hay muộn cũng phải trở lại với Hegel”. Điều đó cho thấy tầm quan trọng, sự ảnh hưởng và sức hút lớn của triết học Hegel.

Triết học Hegel là một hệ thống đồ sộ, bao gồm nhiều lĩnh vực nhưng thành tựu to lớn nhất của triết học Hegel chính là phép biện chứng. Phép biện chứng của Hegel được trình bày chủ yếu trong ba tập Bách khoa thư các khoa học triết học, trong đó  Bách khoa thư các khoa học triết học I – Khoa học Logic trình bày học thuyết về tồn tại, Bách khoa thư các khoa học triết học II – Khoa học Logic trình bày học thuyết về bản chất và Bách khoa thư các khoa học triết học III – Khoa học Logic trình bày học thuyết về khái niệm. Tư tưởng biện chứng của Hegel đã có ảnh hưởng sâu sắc đến triết học Marx, trở thành một trong những tiền đề lý luận chủ yếu để hình thành nên triết học Marx.

 Bắt nguồn từ sức hút của một triết gia lớn như Hegel và sự ảnh hưởng sâu sắc của phép biện chứng trong triết học Hegel đối với triết học Marx, tác giả cho rằng cần thiết phải nghiên cứu: “Tư tưởng biện chứng trong học thuyết về tồn tại của Hegel và sự kế thừa của triết học Marx”.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TRIẾT HỌC HEGEL

Bất kỳ quan điểm, học thuyết của nhà tư tưởng, triết gia nào cũng đều chịu ảnh hưởng nhất định của bối cảnh lịch sử trong thời đại của họ. Do đó, để hiểu rõ hơn tư tưởng của họ, cần tìm hiểu, nghiên cứu bối cảnh lịch sử hình thành nên tư tưởng đó. Đối với Hegel, triết học của ông được hình thành và chịu ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử nước Đức trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII – giữa thế kỷ XIX.  

Bên cạnh đó, bối cảnh gia đình và tiểu sử cá nhân cũng là một trong những nét đặc thù gắn với mỗi nhà tư tưởng, triết gia. Do đó, chương này cũng đề cập sơ lược về gia đình và tiểu sử của Hegel.

1.1. Bối cảnh lịch sử nước Đức cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX

Đây là đặc điểm thời đại hình thành và chi phối nền triết học cổ điển Đức nói chung và triết học Hegel nói riêng.

Nước Đức thời kỳ này vẫn là một quốc gia phong kiến cát cứ điển hình với chế độ chuyên chế nhà nước Phổ. Đây là thời kỳ nhà nước Phổ có sự suy yếu, lạc hậu về kinh tế và chính trị.

Nước Đức nửa đầu thế kỷ XIX chứng kiến cuộc đấu tranh dai dẳng giữa những người theo chủ nghĩa tự do muốn một có liên bang Đức thống nhất dưới một Hiến pháp dân chủ, và những người theo chủ nghĩa bảo thủ, muốn duy trì nước Đức như là một tập hợp chắp vá bởi các tiểu quốc quân chủ độc lập, với Phổ và Áo tranh giành ảnh hưởng. Triều đình vua Phổ Friedrich Wilhelm vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Trong khi đó, ở Tây Âu diễn ra các cuộc cách mạng tư sản làm rung chuyển cả Châu Âu, đặc biệt là cách mạng tư sản Pháp năm 1789; nước Anh khởi đầu cho cuộc cách mạng công nghiệp. Chủ nghĩa tư bản đã hình thành ở nhiều nước ở Tây Âu, đem lại một nền sản xuất phát triển, mở đầu nền văn minh công nghiệp, khẳng định tính chất ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến.

Sự lạc hậu của nước Đức, sự phát triển của các nước Tây Âu về kinh tế – xã hội, sự phát triển của khoa học đã thức tỉnh tính phản kháng của giai cấp tư sản Đức cũng như những bộ phận tiến bộ khác của xã hội và đòi hỏi phải có cách nhìn mới về tự nhiên, xã hội và con người. Giai cấp tư sản Đức muốn làm cách mạng tư sản như các nước Tây Âu, muốn xây dựng nền triết học theo yêu cầu mới, song do mới ra đời và nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau nên họ còn yếu kém về số lượng, kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn, mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó nên họ giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước. Chính điều đó quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức nói chung và triết học của Hegel nói riêng: nội dung cách mạng dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng, là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học[1].

1.2. Bối cảnh gia đình và tiểu sử của Hegel[2]

Georg Wilhelm Friedrich Hegel sinh ngày 27/8/1770 tại Stuttgart, thuộc lãnh địa Württemberg, miền tây nam nước Đức.

Ông sinh ra trong một gia đình công chức và theo đạo Tin lành. Cha ông, Georg Ludwig, là công chức của quận công Württemberg – Carl Eugen. Mẹ ông, Maria Magdalena Louisa, là con gái của một luật sư Tòa tối cao ở Württemberg. Hegel có một em gái tên Christiane Luise (1773-1832) và một em trai tên Georg Ludwig (1776-1812).

Mẹ của Hegel mất vào năm ông được 13 tuổi. Nhưng ngay từ nhỏ, ông đã sớm được mẹ mình dạy học tiếng Latin. Vào năm 03 tuổi, ông đi học tại trường Đức (“German School”) và 05 tuổi, học trường Latin (“Latin school”).

Năm 1776, ông theo học trung học tại trường Stuttgart.

Năm 1788, được cha khuyến khích trở thành giáo sĩ, Hegel theo học tại trường dòng Tin Lành thuộc Đại học Tübinger. Tại đây, ông kết bạn với nhà thơ Friedrich Hölderlin và Friedrich Wilhelm Joseph Schelling – một trong những triết gia nổi tiếng cùng thời với ông sau này. Cả ba đã có nhiều chia sẻ lẫn nhau và chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhau.

Từ 1793, sau khi tốt nghiệp trường Tübinger, Hegel quyết định không trở thành mục sư mà đi dạy tư tại Bern (Thụy Điển).

Năm 1797, theo đề nghi của Hölderlin, ông dạy tư cho một gia đình thương gia rượu vang tại Frankurt. Tại đây, Hölderlin đã có những ảnh hưởng về tư tưởng đối với Hegel. Trong giai đoạn này, ông nhiều cứu và bài viết về tôn giáo.

Năm 1799, cha ông qua đời. Được thừa kế di sản từ người cha, ông từ bỏ việc dạy tư.

Năm 1801, với sự khuyến khích của người bạn cũ Schelling, bấy giờ đã là Giáo sư tại trường Đại học Jena, Hegel đến Jena và làm việc với tư cách một giảng viên, sau đó trở thành Giáo sư. Tại đây, ông đã hoàn thành quyển sách đầu tiên: “Sự khác biệt giữa hệ thống triết học của Scheeling và Fichte”. Hegel cũng tham gia giảng dạy chung với Schelling về triết học. Năm 1802, Hegel còn cùng với Scheeling sáng lập một tạp chí Triết học tên Kritische Journal der Philosophie (“Critical Journal of Philosophy”, tạm dịch: Tạp chí Triết học chính yếu). Tạp chí này tồn tại đến năm 1803 khi Schelling đến Würzburg.

Năm 1806, Pháp chiếm đóng thành phố Jena. Tháng 03/1807, Hegel đến Bamberg và làm Biên tập cho tờ báo Bamberger Zeitung.

Năm 1807, Hegel đã hoàn thành một trong những tác phẩm quan trọng nhất của ông – Hiện tượng học về tinh thần (“Phenomenology of Spirit”).

Tháng 11/1808, Hegel làm Hiệu trưởng một trường dòng ở Nuremberg trong tám năm (đến 1816). Tại đây, ông đã đưa tác phẩm Hiện tượng học về tinh thần vào giảng dạy. Trong thời gian này, ông xuất bản tác phẩm chính yếu thứ hai của ông: Khoa học về Logic (Wissenschaft der Logik), bao gồm 3 tập, xuất bản vào các năm 1812, 1813, 1816.

Năm 1811, ông kết hôn với Marie Helena Susanna von Tucher (1791–1855) năm 1811 và có hai người con trai, Karl Friedrich Wilhelm (1813–1901) và Immanuel Thomas Christian (1814–1891). (Ngoài ra, ông còn có một con trai riêng với Christiana Burkhardt trong thời gian ông sống ở Jena, tên là Georg Ludwig Friedrich Fischer (1807–1831). Khi 10 tuổi, năm 1817, cũng về sống chung với gia đình Hegel ở Heidelberg)

Năm 1816, Hegel đến Đại học Heidelberg. Ngay sau đó, năm 1817, ông cho xuất bản Đại cương Bách khoa thư về khoa học triết học (The Encyclopedia of the Philosophical Sciences in Outline) dưới hình thức tóm lược triết học của ông để giảng dạy tại Heidelberg.

Năm 1818, Hegel đến dạy tại Đại học Berlin và đến đây làm Chủ tịch Triết học (bỏ trống từ sau khi Fichte qua đời năm 1814). Năm 1821, ông cho xuất bản tác phẩm Triết học pháp quyền (1821). Ông gắn bó ở đây đến cuối đời và tập trung giảng dạy về mỹ học, lịch sử triết học, triết học tôn giáo, triết học lịch sử.

Hegel bệnh mất vào ngày 14/11/1831. Ông được chôn cất ở nghĩa trang Dorotheenstadt, bên cạnh Fichte và Solger.

Sau khi Hegel qua đời, các ghi chú giảng bài của ông và các ghi chú bổ sung của sinh viên được xuất bản: Mỹ học (1835 – 1838), Những bài giảng về lịch sử triết học (1833 – 1836), Những bài giảng về triết học tôn giáo (1832), Những bài giảng về triết học lịch sử (1837).

Ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng Hy Lạp (Parmenides), Hegel còn đọc các tác phẩm của triết gia Hà Lan Baruch Spinoza, văn hào Pháp Jean Jacques Reussau và các triết gia Đức Immanuel Kant, Johan Gottlieb Fichte, Schelling. Dù ông thường xuyên bất đồng với những triết gia này nhưng ảnh hưởng của họ trong các tác phẩm của ông là rất rõ ràng.

Tổng kết chương 1: Qua chương này, chúng ta đã hiểu được bối cảnh xuất thân của Hegel và bối cảnh lịch sử nước Đức lúc bấy giờ. Với xuất thân từ một gia đình ngoan đạo, từng theo học trường dòng, tám năm làm hiệu trường trường dòng, Hegel ít nhiều chịu ảnh hưởng duy tâm từ sự thần bí của các quan niệm tôn giáo. Đồng thời, bối cảnh lịch sử – xã hội của đất nước cũng ảnh hưởng chung đến nền triết học cổ điển Đức, trong đó có Hegel, làm cho triết học thời kỳ này có nọi dung cách mạng dưới hình thức duy tâm, bảo thủ.

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG HỌC THUYẾT VỀ TỒN TẠI CỦA HEGEL VÀ SỰ KẾ THỪA CỦA TRIẾT HỌC MARX

2.1. Khái quát về biện chứng từ triết học cổ đại đến triết học cổ điển Đức

“Biện chứng” có gốc từ tiếng Hy Lạp là “dialektica” (với nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ những lập luận của mình. Trong triết học Marx, “biện chứng” được dùng đối lập với “siêu hình”, đó là lý luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.

Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến nay, lịch sử phát triển của nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, gắn với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.

Thời cổ đại, phép biện chứng mang nặng tính mộc mạc, chất phác. Cả triết học Phương Đông và Phương Tây cổ đại đều chứa đựng tư tưởng về biện chứng. Trong triết học Phương Đông cổ đại, quan niệm về nhân duyên, vô ngã, vô thường của Đạo Phật chứa đựng những tư tưởng biện chứng khá sâu sắc. Trong thuyết Âm – Dương, Âm và Dương tồn tại trong mối liên hệ quy định lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi; giữa cái duy nhất và cái số nhiều, đa dạng, phong phú. Trong thuyết ngũ hành, năm yếu tố Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ tồn tại trong mối liên hệ tương sinh, tương khắc với nhau. Các yếu tố đó tác động, chuyển hóa lẫn nhau, rằng buộc, quy định lẫn nhau, tạo ra sự biến đổi trong vạn vật. Lão Tử (khoảng thế kỷ VI. TCN) cho rằng vạn vật bị chi phối bởi hai quy luật phổ biến là quân bình và phản phục. Luật quân bình luôn giữ cho sự vận động của vạn vật được cân bằng theo một trật tự điều hòa trong tự nhiên, không có gì thái hóa, không có gì bất cập. Luật phản phục là khi sự vật phát triển đến cực điểm thì chuyển quay trở lại theo phương hướng cũ. Trong Đạo đức kinh, còn có những tư tưởng biện chứng trực quan như bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau,v.v.[1]

Triết học Hy Lạp cổ đại với các triết gia tiêu biểu như Heraclite, Socrate, Platon, Aristotle,… đều chứa đựng tư tưởng biện chứng. Heraclite cho rằng bản nguyên của thế giới là lửa và khẳng định bản tính của thế giới là “mọi thứ đều trôi qua”. Ông cho rằng “mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”, bản thân vũ trụ  “mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng cháy bùng và tàn lụi”. Ông xây dựng “học thuyết về dòng chảy” với luận điểm kinh điển “Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Đối lập với phép biện chứng khẳng định của Heraclite là phép biện chứng “phủ định” của trường phái Ele, với chủ trương vạn vật bất biến, không sinh thành, không diệt vong với hai đại biểu lớn là Parmenides và Denon. Vào thời cực thịnh của triết học Hy Lạp cổ đại, tu tưởng biện chứng được thể hiện trong tư tưởng của Socrate. Socrate được xem là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ biện chứng theo nghĩa là nghệ thuật tranh luận, hướng các bên cùng quan tâm đến vấn đề tranh luận với mục đích đạt được chân lý bằng con đường đối lập các ý kiến của họ qua hình thức hỏi – đáp. Tư tưởng này được phát triển hơn trong quan niệm biện chứng của Platon. Platon cho rằng biện chứng là nghệ thuật tìm ra các khái niệm đúng, là thao tác logic phân chia và gắn kết các khái niệm bằng công cụ hỏi- đáp để xác định các khái niệm đó. Aristotle có những nghiên cứu sâu sắc về logic và biện chứng. Ông đưa ra nhiều tư tưởng về phạm trù, quy luật và xây dựng các hình thức cơ bản của tư duy. Phép biện chứng của Aristotle ngoài sự thể hiện các quan niệm về các vật thể tự nhiên và sự vận động của chúng, còn thể hiện rõ trong sự giải thích về cái riêng và cái chung, ông đã cố gắng khảo sát cái chung trong sự thống nhất không tách rời cái riêng; theo ông, nhận thức cái chung trong cái đơn lẻ là thực chất của nhận thức cảm tính.

Nhìn chung, phép biện chứng cổ đại mang nặng tính tự phát, ngây thơ. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, quy định, tác động lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi. Những nội dug tư tưởng cơ bản của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại là cơ sở để phép biện chứng phát triển lên hình thức cao hơn, “triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà thôi”[2].

Triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ (thế kỷ V – XV), với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất phong kiến, triết học và khoa học thời kỳ này là một bước lùi so với thiờ kỳ cổ đại. Thời kỳ này, triết học gắn liền với tôn giáo (Cơ đốc giáo) và chủ nghĩa kinh viện, tư tưởng về biện chứng không được phát triển.

Triết học Tây Âu thời Phục hưng (thế kỷ XV – XVI) và Cận đại (thế kỷ XVII – XVIII), gắn liền với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, triết học có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này (cận đại) gắn với phương thức tư duy siêu hình của khoa học tự nhiên, tư tưởng biện chứng không được phát triển.

Bước sang cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, với bối cảnh lịch sử đặc thù của nước Đức, với sự phát triển của triết học cổ điển Đức, tư tưởng biện chứng từ thời cổ đại mới được “sống lại” và phát triển trong một hình thái mới. Phép biện chứng được xem là thành tựu lớn nhất của triết học cổ điển Đức.

Kant được xem là người sáng lập phép biện chứng cổ điển Đức. Trong triết học Kant, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, theo đó, sự thống nhất và thâm nhập lẫn nhau giữa các mặt đối lập là động lực của sự vận động và phát triển. Động lực đó có trước vật chất và tách rời vật chất. Trong triết học Fichte, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mâu thuẫn và nguồn gốc của sự phát triển. Mâu thuẫn và phát triển chỉ tồn tại trong ý thức, thể hiện trong sự vận động tiến bộ của tư duy trong quá trình nhận thức. Trong triết học Schelling, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mối liên hệ phổ biến, sự thống nhất và sự phát triển, tư tưởng về sự thống nhất biện chứng của tự nhiên, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong tự nhiên[3].

Nhìn chung, phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức là phép biện chứng duy tâm, được hình thành từ Kant, phát triển qua các nhà triết học sau đó như Fichte, Schelling và phát triển đỉnh cao trong triết học của Hegel: “hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc của các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen”.

2.2. Tư tưởng biện chứng của Hegel trong học thuyết về tồn tại

Tiếp thu tư tưởng biện chứng của triết học cổ đại, chịu ảnh hưởng tư tưởng của một số triết gia đương thời, đồng thời phê phán tư tưởng của họ và một số hệ thống triết học trước đó, Hegel đã xây dựng và phát triển phép biện chứng duy tâm lên đến đỉnh cao với hình thức và nội dung phong phú với mong muốn xây dựng “một phương pháp duy nhất đúng thật, một phương pháp hoàn toàn đồng nhất với nội dung của nó”[4].

Theo Hegel, biện chứng là sự tự thủ tiêu của chính những quy định hữu hạn và là sự chuyển hóa của chúng sang những cái đối lập của chúng. Hegel cho rằng: “Trong tính quy định riêng có của nó, phép biện chứng thực ra là bản tính riêng, đúng thật của những quy định của giác tính[5], của những sự vật và của cái hữu hạn nói chung. Sự phản tư[6] thoạt đầu là sự vượt ra khỏi tính quy định bị cô lập và là một sự đặt quan hệ của tính quy định này, qua đó nó được thiết định vào trong mối quan hệ [với những tính quy định khác] nhưng vẫn được bảo tồn trong giá trị hiệu lực bị cô lập của nó. Ngược lại, phép biện chứng là việc vượt ra khỏi [một cách] nội tại, trong đó tính phiến diện và tính bị hạn chế của những quy định của giác tính tự phô bày đúng như nó trong sự thật, nghĩa là, như là sự phủ định của chúng [của những quy định này]. Mọi cái hữu hạn là cái gì tự thủ tiêu chính mình. Vì thế, cái biện chứng tạo nên linh hồn vận động của sự tiến lên của Khoa học và là nguyên tắc chỉ qua đó sự nối kết [mạch lạc] nội tại và sự tất yếu mới đi vào trong nội dung của Khoa học, cũng như chỉ trong đó mới tìm thấy được việc nâng lên khỏi cái hữu hạn một cách đúng thật, chứ không phải [đơn thuần] ngoại tại”. “Lĩnh hội và nhìn nhận cái biện chứng một cách đúng đắn là điều quan trọng bậc nhất. Nói chung, nó là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi sự hoạt hóa(b)  ở trong [thế giới] hiện thực. Cũng thế, cái biện chứng cũng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học đích thực”. [7]

Về hình thức, phép biện chứng của Hegel bao quát cả ba lĩnh vực, bắt đầu từ các phạm trù logic thuần túy đến đến lĩnh vực tự nhiên và kết thúc bằng biện chứng của toàn bộ quá trình lịch sử. Về nội dung, Hegel chia phép biện chứng thành tồn tại, bản chất và khái niệm[8]. Trong phạm vi nghiên cứu của tiểu luận, tác giả tìm hiểu, trình bày về những tư tưởng biện chứng trong học thuyết về tồn tại của Hegel.

Học thuyết tồn tại của Hegel được trình bày trong tác phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học I – Khoa học Logic, được Hegel cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1817, lần thứu hai vào năm 1827 và lần thứ ba vào năm 1830. Học thuyết về tồn tại của Hegel bàn về tư tưởng trong sự trực tiếp của nó. Tồn tại là cái vỏ bên ngoài, trực tiếp, nông nhất mà con người có thể cảm giác và được cụ thể hóa trong các phạm trù chất, lượng và hạn độ.

Theo Hegel, tồn tại là “cái bắt đầu”, là “cái trực tiếp đơn giản, vô quy định”, là “tư tưởng thuần túy”. Hegel cho rằng: “khi bắt đầu tư duy, ta không có gì ngoài tư tưởng trong tính thuần túy không được quy định của nó, bởi để quy định, cần có một cái này và một cái khác, nhưng trong sự bắt đầu, ta chưa có cái khác nào cả. Cái không được quy định mà ta có ở đây là cái trực tiếp, không phải là một tính không được quy định được trung giới, cũng không phải là việc vượt bỏ mọi tính quy định mà là sự trực tiếp của tính không được quy định, là tính không được quy định trước mọi tính  quy  định, là cái không  có quy định vì như là cái đầu tiên nhất. Những đó là cái ta gọi là “tồn tại”[9]. Tồn tại là “cái không cảm giác được, không trực quan được, không hình dung được, mà là tư tưởng thuần túy và với tư cách ấy, nó tạo nên điểm bắt đầu”[10].

Hegel cũng cho rằng tồn tại thuần túy là sự trừu tượng thuần túy, và do đó, là cái phủ định tuyệt đối, là “hư vô”. Tồn tại chỉ là cái hoàn toàn không có quy định và hư vô cũng là cùng một tính không có quy định như thế. Hư vô và tồn tại thống nhất với nhau, sự thống nhất đó là “sự trở thành”. Khi đó, tồn tại và hư vô thống nhất với nhau, tồn tại và hư vô cũng như là tan biến đi do sự mâu thuẫn của nó, sự trở thành sụp đổ ở bên trong chính mình vào một sự thống nhất mới, trong đó cả hai đều bị vượt bỏ; kết quả là xuất hiện “tồn tại hiện có” (“tồn tại được quy định”, chứ không phải là “tồn tại thuần túy” ban đầu nữa). Tồn tại hiện có là sự thống nhất hay nhất thể của tồn tại và hư vô, trong đó tính trực tiếp của các quy định này và cùng với nó, sự mâu thuẫn của chúng, đã tiêu biến trong mối quan hệ của chúng.

Về chất, chất là tính quy định đồng nhất, trực tiếp với tồn tại: “Tồn tại hiện có là tồn tại với một tính quy định; tính quy định này như là tính quy định trực tiếp hay tính quy định tồn tại đơn thuần: đấy là Chất. Như là cái gì phản tư vào trong chính mình ở trong tính quy định này của nó, tồn tại hiện có là cái gì có đó hay là cái gì đó”[11].

Chất quy định cái gì đó là chính nó và nếu mất chất đi, cái đó không còn là chính nó nữa. Chất chứa đựng sự phủ định. Nhưng không còn là hư vô trừu tượng mà như là một tồn tại hiện có và cái gì đó, nó (sự phủ định) chỉ là hình thức của “cái gì đó”: như là tồn tại khác. Chất quy định cho cái này nhưng cũng là tồn tại cho cái khác – cái gì đó. Tồn tại của chất, xét như bản thân nó, đối lập lại với mối quan hệ với cái khác này, là tồn tại tự mình.

Hegel cho rằng trong tồn tại hiện có, sự phủ định vẫn còn đồng nhất một cách trực tiếp với tồn tại, và sự phủ định này là cái được ta gọi là ranh giới. Cái gì đó chỉ là nó ở trong ranh giới của nó và nhờ vào ranh giới của nó. Nếu xem xét kỹ hơn những gì mà một ranh giới bao hàm, ta sẽ thấy rằng nó chứa đựng một mâu thuẫn ở bên trong nó và tự chứng tỏ là có tính biện chứng. Ranh giới, một mặt, tạo nên thực tại của tồn tại hiện có, và mặt khác, nó là sự phủ định của tồn tại ấy. Nhưng, ranh giới, như là sự phủ định của cái gì đó, không phải là một hư vô trừu tượng nói chung, mà là một hư vô đang đơn thuần tồn tại hay là cái mà ta gọi là một “cái khác”. Song, cái khác cũng không phải là một cái mà ta chỉ tìm thấy như thể cái gì đó cũng có thể được suy tưởng mà không cần có nó, trái lại, cái gì đó, về mặt tự mình, là cái khác của chính mình, và ranh giới của cái gì đó trở nên khách quan với nó ở trong cái khác. Cái gì đó trở thành một cái khác – là một sự phủ định cụ thể, nhưng bản thân cái khác cũng là một cái gì đó (tức hữu hạn và khả biến), nên cái gì đó này cũng trở thành một cái khác, và cứ thế đến vô hạn.

Về lượng, nếu như chất là tính quy định nội tại thì ngược lại, lượng là tính quy định ngoại tại, dửng dưng đối với tồn tại, lượng không được thiết định như là một với bản thân tồn tại. Lượng được thiết định một cách cơ bản bằng tính quy định loại trừ mà nó vốn bao hàm, là đại lượng (Quantum) hay lượng bị giới hạn. Đại lượng là lượng với một tính quy định hay một ranh giới. Nhờ cái Một, tức nhờ cái được quy định một cách tuyệt đối giới hạn nó, đại lượng nào cũng có một tính quy định nào đó. Tính quy định bởi cái Một giúp xác định chính xác đại lượng là bao gồm bao nhiêu cái Một ở trong nó. Do đó, trong đại lượng, cái Một không chỉ là nguyên tắc của sự giới hạn mà còn là nguyên tắc của việc đếm, nên đại lượng có tính quy định hoàn tất trong con số: là con số, đại lượng được xác định hoàn toàn; ranh giới của nó không phải trừu tượng mà là những cái Một nhất định tạo nên con số.

Về “hạn độ”, đó là cấp độ thứ ba của tồn tại, là sự thống nhất của lượng và chất, là chân lý cụ thể của tồn tại. Hạn độ là đại lượng mang tính cách của chất và là một đại lượng mà một cái tồn tại hiện có hay một chất được gắn liền với nó. Có thể nói, hạn độ là một chất được lượng hóa, nghĩa là một chất được gán cho một lượng nhất định và là lượng của riêng nó. Ngược lại, cũng có thể nói, hạn độ là một đại lượng được chất hóa.

Như là sự thống nhất giữa chất và lượng, nên hạn độ là tồn tại đã hoàn tất. Khi ta nói về tồn tại, thoạt đầu nó tỏ ra là một cái gì hoàn toàn trừu tượng và thiếu mọi sự quy định; nhưng tồn tại, về cơ bản, là cái gì tự quy định chính mình, và nó đạt tới tính quy định hoàn tất ở trong hạn độ.

Trong chừng mực ở trong hạn độ, sự thống nhất của chất và lượng có mặt trong hạn độ thoạt đầu chỉ mới là tự mình (mặc nhiên) chứ chưa được thiết định. Về phương diện ấy, một mặt, những quy định về lượng của cái tồn tại hiện có có thể được thay đổi mà chất của nó không bị tác động, nhưng, mặt khác, sự tăng lên hay giảm đi dửng dưng này cũng có một ranh giới, mà việc vượt qua nó sẽ làm thay đổi chất. Nhưng bây giờ, khi lượng hiện diện trong hạn độ vượt khỏi một ranh giới nào đó, chất tương ứng qua đó cũng bị thủ tiêu. Tuy nhiên, cái bị phủ định theo cách ấy không phải là chất nói chung, mà chỉ là chất nhất định này, và vị trí của nó lập tức lại được một chất khác chiếm giữ. Cả hai sự chuyển sang nhau này, từ chất sang đại lượng và từ đại lượng lại sang chất, một lần nữa có thể được hình dung như là tiến trình vô hạn – như là sự tự thủ tiêu và khôi phục của hạn độ trong sự vô hạn độ. Từ hạn độ sẽ tiếp tục tiến lên lĩnh vực chính yếu thứ hai của Ý niệm, đó là tiến tới Bản chất.

Qua nghiên cứu nêu trên, chúng ta thấy rằng học thuyết về tồn tại của Hegel chưa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc. Hegel đã xem xét tồn tại trong sự vận động không ngừng; sự vận động là sự tự thân vận động; sự thống nhất và chuyển hóa của các mặt đối lập; mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của sự phát triển; Hegel đã xem xét chất, lượng trong mối liên hệ, tác động lẫn nhau; vừa thống nhất, vừa phủ định,… Tuy nhiên, hạn chế trong phép biện chứng của Hegel đó là phép biện chứng của Hegel là biện chứng duy tâm, sự vận động, phát triển từ “tồn tại thuần túy” nào đó, từ “ý niệm tuyệt đối” chứ không phải từ vật chất.

2.3. Sự kế thừa triết học của Marx đối với tư tưởng biện chứng của Hegel trong học thuyết về tồn tại

Dù xuất phát từ lập trường thế giới quan duy tâm, nhưng triết học của Hegel, xét về phương pháp biện chứng, là có ý nghĩa cách mạng, thể hiện quá trình liên hệ, tác động, chuyển hóa và phát triển không ngừng của thế giới. Đó là sự phỏng đoán tài tình về “biện chứng của sự vật trong biện chứng của khái niệm” (Lenin). Engels khẳng định: “Nhưng ý nghĩa thật sự và tính chất cách mạng của triết học Hegel… chính là ở chỗ nó đã vĩnh viễn kết liễu tính tối hậu của những kết quả của tư tưởng và của hành động con người”[12], “nền triết học mới của Đức đã đạt tới đỉnh cao của nó trong hệ thống của Hê-ghen, trong đó lần đầu tiên và đây là công lao to lớn của ông – toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần được trình bày, như là một Quá trình, nghĩa là luôn luôn vận động, biến đổi, biến hóa và phát triển, và ông đã cố vạch ra mối liên hệ nội tại của sự vận động và phát triển ấy”[13].

Trên cơ sở phép biện chứng duy tâm của Hegel, các nhà triết học Marx đã tiếp thu cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng để hình thành nên phép biện chứng duy vật – phép biện chứng khoa học và cách mạng, “học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người” (Lenin). Các nhà triết học Marx cho rằng “ở Hegel, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó đằng sau lớp vỏ thần bí”.

Các nhà triết học Marx tìm thấy hạt nhân hợp lý trong phương pháp biện chứng của Hegel là sự tự vận động. Nội dung hợp lý sâu sắc trong quan điểm trên của Hegel là mối liên hệ tất yếu, là nguồn gốc nội tại của những sự khác nhau.

Đối với tư tưởng biện chứng trong học thuyết về tồn tại của Hegel được trình bày ở trên, ngoại trừ thay thế thế giới quan duy tâm trong triết học Hegel bằng thế giới quan duy vật, có thể thấy triết học Marx đã tiếp thu hầu như toàn bộ những nội dung biện chứng của Hegel và phát triển nó. Triết học Marx cũng coi sự vận động của thế giới là sự vận động, phát triển không ngừng. Nếu Hegel cho rằng thế giới bắt đầu từ ý niệm tuyệt đối, tồn tại thuần túy thì triết học Marx cho rằng thế giới bắt nguồn tự vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Nếu Hegel coi tồn tại là “cái không cảm giác được, không trực quan được, không hình dung được, mà là tư tưởng thuần túy và với tư cách ấy, nó tạo nên điểm bắt đầu” thì triết học Marx coi “vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác con người” (Lenin), nghĩa là vật chất đối lập hẳn với tồn tại.

Những tư tưởng biện chứng trong học thuyết về tồn tại của Hegel đã tạo tiền đề để triết học Marx xây dựng phép biện chứng duy vật thành một hệ thống bao gồm hai nguyên lý (nguyên lý mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), ba quy luật cơ bản (quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật lượng – chất và quy luật phủ định của phủ định). (Trong học thuyết về tồn tại của Hegel, các cập phạm trù chưa được đề cập đến cụ thể nên không trình bày trong tiểu luận này).

Sự kế thừa của triết học Marx đối với phép biện chứng của Hegel là sự kế thừa “hạt nhân hợp lý” và phát triển nó trở nên hoàn bị hơn. Phép biện chứng của triết học Marx “không những khác phương pháp của Hegel về cơ bản mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa”. Sự đối lập đó là sự đối lập giữa xuất phát điểm trong hệ thống triết học, hai thế giới quan duy vật và duy tâm và đó cũng là sự khác nhau lớn nhất giữa phép biện chứng của triết học Marx và phép biện chứng của Hegel. Nhiều nhà triết học đã đánh giá nếu loại bỏ đi cái xuất phát điểm trong thế giới quan duy tâm của Hegel, người ta sẽ không phân biệt được đâu là triết học Marx, đâu là triết học Hegel.

>> Xem Chú thích

S.T

Tags: , ,