Tại sao đảo Hải Nam không giàu có như Đài Loan?

Cả Hải Nam và Đài Loan đều khá gần với Trung Hoa đại lục và có kích thước tương đương nhau. Đó là lý do tại sao người Trung Quốc thích so sánh hai hòn đảo này với nhau.

Tác giả: Janus Dongye Qimeng / Quora.com.

Biên dịch: Huynh Gia Bao / Group Quora Việt Nam.

Câu trả lời này sẽ dài đấy nhé, tôi sẽ giải thích nguyên nhân vì sao đảo Hải Nam không giàu như Đài Loan xét theo các yếu tố lịch sử và địa lý. Sau đó, tôi sẽ thảo luận làm thế nào để chính phủ Trung Quốc có thể thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa hai nơi.

ĐÀI LOAN, SỐ PHẬN LỊCH SỬ MAY MẮN HAY BẤT HẠNH?

Giai đoạn I: Đứa con nuôi của Nhật Bản (1895 – 1945)

Năm 1895, chính quyền Nhà Thanh đã bị đế quốc Nhật đánh bại trong cuộc chiến tranh Thanh – Nhật. Nhà Thanh đã phải nhượng lại Đài Loan cho Nhật Bản trong Hiệp ước Shimonoseki (马关条约). Kể từ đó, Đài Loan nằm dưới sự cai trị của Nhật Bản trong vòng 50 năm cho đến năm 1945.

Sau khi tiếp quản Đài Loan vào năm 1895, ban đầu, người Nhật muốn xây dựng Đài Loan thành một trung tâm nông nghiệp để có thể trồng lương thực, nuôi sống đế quốc Nhật Bản (giống như những gì người Anh đã làm với Ấn Độ).

Sau khi chiến thắng chiến tranh Nga – Nhật năm 1905 và chiếm được bán đảo Triều Tiên vào năm 1910, đế quốc Nhật muốn dần dần biến Đài Loan thành một phần lãnh thổ đúng nghĩa của mình (内地延長主義). Do đó, Nhật Bản bắt đầu phát triển Đài Loan một cách nghiêm túc như chính quốc gia của mình.

Vậy trong hơn 50 năm cai trị của Nhật Bản, người Nhật đã làm gì để phát triển Đài Loan?

1. Giáo dục Nhật Bản

Đầu tiên, Nhật Bản đã đầu tư rất nhiều tiền bạc để loại bỏ văn hóa Trung Quốc và đào tạo người Đài Loan trở thành người Nhật. Vào thời điểm đó, Đài Loan chỉ là một hòn đảo nông nghiệp với khoảng hơn 2 triệu nông dân và ngư dân mù chữ di cư từ Phúc Kiến.

Nhật Bản đã cho xây dựng hàng trăm trường học trên khắp Đài Loan và thực thi chương trình giáo dục bắt buộc đối với trẻ em địa phương. Tất nhiên, bọn trẻ được dạy bằng tiếng Nhật nhằm tẩy não và ủng hộ mẫu quốc. Với hệ thống giáo dục bắt buộc, hầu hết người dân Đài Loan đều có một nền giáo dục cơ bản đàng hoàng, mặc dù chỉ bằng tiếng Nhật.

2. Bùng nổ phát triển cơ sở hạ tầng

Bên cạnh giáo dục, người Nhật cũng đổ một lượng tiền khổng lồ vào Đài Loan để xây dựng cơ sở hạ tầng.

Thứ nhất, họ cho xây dựng nên một mạng lưới đường sắt và đường bộ gần như hoàn chỉnh trên toàn bộ hòn đảo. Hầu hết các tuyến đường sắt vẫn còn đang được sử dụng cho đến ngày nay.

Người dân có thể đi từ Đài Bắc đến Cao Hùng chỉ trong một ngày vào năm 1920. Đây là một sự cải tiến rất lớn trong ngành giao thông vận tải cũng như nâng cao hiệu suất trên đảo Đài Loan. Trong khi đó, toàn bộ Trung Quốc đại lục chỉ có hai tuyến đường sắt chính là tuyến Bắc Kinh – Hán Khẩu và tuyến Bắc Kinh – Thượng Hải được xây dựng sau cuộc Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn (1899) với sự tài trợ của các cường quốc phương Tây.

Thứ hai, Nhật Bản đã cho xây dựng nên một loạt các nhà máy điện than và nhà máy thủy điện trên khắp Đài Loan. Một vài nhà máy vẫn đang được Đài Loan cải tiến và sử dụng cho đến ngày nay. Tuy nhiên, ở Trung Quốc lại không có một nhà máy thủy điện nào và rất ít nhà máy điện than vào thời điểm đó.

Thứ ba, người Nhật đã cho xây dựng một hệ thống hồ chứa và kênh rạch trên khu vực đồng bằng Gia Nam. Nhờ thế, những người nông dân Đài Loan không còn phải hứng chịu những đợt lũ lụt nghiêm trọng nữa. Năng suất cây trồng đã được nâng cao đáng kể nhờ hệ thống tưới tiêu có kiểm soát cùng với công nghệ canh tác hiện đại nhất thời bấy giờ được mang đến từ Nhật Bản.

Thứ tư, Nhật Bản đã thiết kế lại toàn bộ các thành phố lớn ở Đài Loan. Đường phố và các tòa nhà được quy hoạch dựa trên lý thuyết thiết kế đô thị châu Âu, cùng với những cải tiến giúp mạng lưới đường bộ thân thiện với xe hơi trong tương lai.

Thứ năm, người Nhật đã xây dựng rất nhiều cảng biển và sân bay tại Đài Loan nhằm thúc đẩy giao thương giữa các thuộc địa. Họ đầu tư mạnh vào hai cảng lớn của Đài Loan: Cơ Long và Cao Hùng. Sơ đồ bản vẽ của hai cảng đã được tạo nên bởi người Nhật và sau đó được hoàn thiện và mở rộng trong thời cai trị của Tưởng Giới Thạch.

Thứ sáu, Nhật Bản đã giúp phát triển nhiều ngành công nghiệp nhẹ bao gồm chế biến thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng v.v tại Đài Loan. Nhiều ông trùm và gia tộc trong giới thượng lưu Đài Loan đã nổi lên từ thời kì này, hậu duệ sau này của họ vẫn có tầm ảnh hưởng đến chính trị Đài Loan ngày nay.

Để xây dựng những công trình đồ sộ như vậy, Nhật Bản sẽ phải cướp đất của người dân và bắt giữ những kẻ phản đối. Đúng, như thế là độc tài nhưng lại hiệu quả. Những điều trên mang lại cả tác động tích cực lẫn tiêu cực đến Đài Loan. Tất nhiên, do sự nhạy cảm chính trị của cuộc chiến tranh xâm lược, cả Trung Hoa Dân Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc đều tập trung vào mặt tiêu cực của đế quốc Nhật trong hệ thống giáo dục của họ.

Nhưng chúng ta không thể chối bỏ một sự thật rằng Đài Loan đã nhanh chóng biến đổi từ một hòn đảo nông nghiệp lạc hậu thành một hòn đảo công nghiệp dưới sự cai trị 50 năm của Nhật Bản. Kết quả là dân số Đài Loan đã tăng từ 2,6 triệu vào năm 1895 lên 6,5 triệu vào năm 1945.

Trong khi đó, ở phía bên kia eo biển, người dân Trung Quốc đại lục vẫn phải chống chọi với những cuộc nội chiến liên miên, nền kinh tế lạm phát và nạn đói hoành hành. Ai lại có thời gian chú ý đến Hải Nam, một hòn đảo đơn thuần chỉ có ngư dân và cướp biển với dân số khoảng 2 triệu người.

Giai đoạn II: Đứa con rơi của Trung Hoa Dân Quốc (1945 – 1949)

Giai đoạn thứ hai của lịch sử Đài Loan bắt đầu vào năm 1945. Chiến tranh Thế giới lần thứ hai đã gần đi đến hồi kết, Hoa Kỳ đã ném bom Đài Loan nhằm phá hoại các ngành công nghiệp trọng yếu trên hòn đảo để đánh bại đế quốc Nhật. Và đây là cuộc chiến duy nhất ở Đài Loan trong thế kỷ XX.
Kết thúc chiến tranh, Nhật Bản đã đầu hàng và phải trả Đài Loan về cho Trung Hoa Dân Quốc. Vào thời điểm đó, mặc dù bị Mỹ ném bom, Đài Loan vẫn phát triển hơn rất nhiều so với bất kỳ thành phố nào của Trung Quốc đại lục.

Đây là một vấn đề đối với Đài Loan. Nó giống như một đứa trẻ từng được nhận nuôi bởi một gia đình giàu có, đột nhiên trở về với gia đình nghèo ban đầu. Vì hầu hết người dân Đài Loan đã được giáo dục bởi văn hóa Nhật Bản (皇民化), họ sẽ ít khoan dung và thất vọng hơn với chính quyền mới nếu họ không quản lý Đài Loan tốt như Nhật Bản.

Thế nhưng, sau năm 1945, Quốc Dân Đảng lại bận rộn chiến đấu với chính quyền Cộng Sản ở đại lục và không thể quan tâm đến Đài Loan. Không may, vào năm 1947, sự kiện bạo loạn 28 tháng 2 đã nổ ra ở Đài Loan, giết hại nhiều thường dân vô tội. Chủ tịch Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch nghĩ rằng vụ việc này được tổ chức bởi phe Cộng Sản vì có rất nhiều cuộc bạo loạn tương tự khác đang diễn ra ở Trung Quốc. Cuộc bạo động nhanh chóng bị đàn áp bằng vũ lực.

Nhưng chỉ 2 năm sau, Quốc Dân Đảng bất ngờ bị Đảng Cộng Sản đánh bại ở đại lục. Tưởng phải rút lui về đảo Đài Loan và mang theo tất cả những gì có giá trị.

Giai đoạn III: Cuộc di cư của Ngoại Tỉnh Nhân (1949 – 1969)

Trong cuộc rút lui năm 1948 và 1949, Tưởng Giới Thạch đã mang hết mọi thứ có giá trị đến đảo Đài Loan. Đó là những gì?

Ước tính có khoảng 1,2 triệu thường dân và binh lính Trung Quốc chuyển đến Đài Loan. Những người này được gọi là Ngoại Tỉnh Nhân (外省人). Hầu hết trong số họ là địa chủ, giới thượng lưu và các nhà tư bản ở Trung Quốc ghét Đảng Cộng Sản. Họ sợ sẽ bị phe Cộng Sản thanh trừng và phân phối lại của cải cho người nghèo, vì vậy họ đã mang phần lớn tài sản của mình đến Đài Loan.

Trong khi đó, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cũng chuyển toàn bộ lượng vàng trong ngân hàng trung ương đến Đài Loan. Ước tính có đến 163 tấn vàng đã được chuyển đi, chiếm hơn một nửa trữ lượng vàng của Đài Loan ngày nay. Đây là cơ sở cho đồng đô la Đài Loan và nhiều lĩnh vực tài chính khác.

Hơn nữa, mặc dù Đảng Cộng Sản đã tiếp quản Trung Quốc và thành lập nên Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vào năm 1949, phe thất bại Quốc Dân Đảng vẫn giữ lại khoản dự trữ ngoại hối 120 triệu USD của Tưởng tại Hoa Kỳ (đồng đô la lúc đó rất đắt). Trong khi đó, phe Cộng Sản lại chẳng có gì. Họ đã phải vay tiền từ Liên Xô để thiết lập nên đồng nhân dân tệ và hệ thống tài chính của Trung Quốc.

Tưởng cũng mang hầu hết các cổ vật từ Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, các tàu thương mại dọc theo các bờ biển của Trung Quốc, các thiết bị công nghệ, các sơ đồ và bản vẽ nhà máy cùng tất cả các tài sản trí tuệ đến Đài Loan. Hơn thế nữa, những chuyên gia trong nhiều lĩnh vực của Trung Quốc cũng được khuyến khích hoặc bị bắt cóc đến Đài Loan, khiến chính quyền Trung Quốc hoàn toàn nghèo nàn về kiến thức.

Cho đến tận ngày nay, nhiều người vẫn đổ lỗi cho sự nghèo đói lạc hậu ở Trung Quốc đại lục thời bấy giờ là do Đảng Cộng Sản mà không biết rằng phần lớn tài nguyên quốc gia đã bị Quốc Dân Đảng mang đến làm giàu cho Đài Loan.

Ồ, nhân tiện, vào năm 1950, Hoa Kỳ cũng đã đầu tư 1,5 tỉ USD để tái thiết Đài Loan nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. 1,5 TỈ ĐÔ LA! Gấp hơn 100 lần viện trợ của Liên Xô cho Trung Quốc.

Với rất nhiều tài sản và nguồn lực như thế, Tưởng Giới Thạch sẽ làm gì?

Phát triển kinh tế Đài Loan?

Còn lâu!

Tưởng đã không làm thế bởi vì ông nghĩ rằng mình vẫn còn cơ hội để chống lại phe cộng sản và giành lại Trung Hoa đại lục. Vì vậy, hầu hết tiền bạc đã được sử dụng cho các hoạt động quân sự. Đồng thời, Tưởng nghĩ rằng thất bại của ông chủ yếu là do các điệp viên cộng sản gây ra. Vì vậy, ông đã tuyên bố thiết quân luật ở Đài Loan, bắt giữ những người nghi là cộng sản và giám sát chặt chẽ người dân Đài Loan.

Mãi đến năm 1967, sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc thử thành công tên lửa hạt nhân, bom hydro và tên lửa đạn đạo, Tưởng cuối cùng đã từ bỏ ý định chiếm lại đất liền. Con trai của ông, Tưởng Kinh Quốc, đã tiếp quản Đài Loan và tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng của hòn đảo.

Giai đoạn IV: Thời kì hoàng kim của Đài Loan (1969 – 1999)

Từ những năm 1970, Tưởng Kinh Quốc đã lãnh đạo mười công trình lớn ở Đài Loan bao gồm đường cao tốc, cảng, nhà máy thép, nhà máy điện, v.v. được gọi chung là Thập Đại Kiến Thiết (十大建設). Đồng thời cũng cải thiện cơ sở hạ tầng hiện có của Nhật Bản trên toàn đảo. Tưởng cũng thúc đẩy phát triển các đặc khu kinh tế (出口加工区) để thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển ngành sản xuất cấp thấp. Nhờ đó, Đài Loan nhanh chóng biến mình thành một nền kinh tế định hướng xuất khẩu.

Không chỉ phát triển cơ sở hạ tầng và ngành công nghiệp sản xuất, Đài Loan còn tập trung vào nghiên cứu và phát triển. Tưởng đã thành lập nên Viện Khoa học và Công nghệ Tân Trúc (工研院) và bắt đầu nghiên cứu công nghệ chế tạo silicon trong những năm 1970.

Vào thời điểm đó, nhiều sinh viên Đài Loan tài năng đã sang Mỹ du học. Thung lũng Silicon có rất nhiều sinh viên Đài Loan tốt nghiệp từ các trường đại học thuộc Ivy League, họ trở thành những nhà khoa học và kỹ sư hàng đầu thành thạo nhiều công nghệ. Ngược lại, những tài năng từ Trung Quốc đại lục bị cấm học ở Mỹ, trừ khi họ phải thề ghét cộng sản.

Một số các nhà khoa học và kỹ sư đã quay về Đài Loan để phát triển các ngành công nghiệp mới. Sau nhiều năm nỗ lực, họ đã trở thành những người đi đầu trong công nghệ chế tạo và sản xuất. Nhiều công ty bán dẫn nổi tiếng đã được sinh ra và phát triển ở Đài Loan từ thời kì này.

Kết quả, Đài Loan đã trải qua thời kỳ hoàng kim của tăng trưởng kinh tế từ năm 1985 đến năm 1997. Cuối năm 1997, GDP của Đài Loan đã đạt 300 tỉ USD, chiếm 40% tổng GDP của Trung Quốc và gấp 250 lần so với GDP của đảo Hải Nam. Đài Loan đứng đầu bốn Con Hổ Châu Á (Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc) về tăng trưởng GDP.

Giai đoạn V: Ngọn hải đăng của “châu Á tự do” (1996 đến nay)

Tuy nhiên, sau khi Liên Xô sụp đổ, Hoa Kỳ nghĩ rằng họ đã chiến thắng cuộc chiến tranh lạnh. Từ đó, bắt đầu quá trình ban phát nền dân chủ tự do phương Tây ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới.

Đài Loan là một trong số đó. Tưởng Kinh Quốc đã buộc phải từ bỏ quyền lực của mình và dỡ bỏ thiết quân luật. Năm 1996, Đài Loan đã tổ chức tổng tuyển cử tự do đầu tiên và Lý Đăng Huy trở thành tổng thống. Đầu tiên ông trung thành với Quốc Dân Đảng nhưng sau đó hóa ra lại là một kẻ ly khai độc lập cực đoan với nhiều hoạt động hỗ trợ bí mật cho phong trào độc lập Đài Loan, và liên quan đến tham nhũng. Đài Loan rơi vào chia rẽ giữa một phe ủng hộ Quốc Dân Đảng và Ngoại Tỉnh Nhân (những người di cư đến Đài Loan sau năm 1949 và hậu duệ) và một phe ủng hộ Dân Tiến Đảng của các hậu duệ người Đài Loan từ thời Nhật thuộc.

Trong hai thập kỷ tiếp theo từ 1999 đến 2019, Đài Loan đã tổ chức 5 cuộc tổng tuyển cử và đã nếm trải được hương vị của một xã hội “tự do và dân chủ” là như thế nào. GDP của Đài Loan vẫn tăng trưởng tốt đồng thời ngành công nghiệp bán dẫn và điện tử vẫn phát triển.

Cho đến năm 2019, Đài Loan là một nền kinh tế với GDP 602,67 tỉ USD (danh nghĩa), sức mua tương đương đạt 1.250 tỉ USD, tốc độ tăng trưởng kinh tế 2,7%, GDP bình quân đầu người 25.534 USD (danh nghĩa, 2018), sức mua tương đương trên đầu người 52.960 USD (2018).

Trong khi đó…

Bây giờ chúng ta cùng nhìn vào lịch sử của đảo Hải Nam. Lịch sử của nó khá đơn giản:

BỊ BỎ RƠI TRONG HÀNG THẾ KỶ

Bỏ rơi lần 1

Trong thời kỳ cai trị của nhà Thanh, Hải Nam thậm chí còn không phải là một tỉnh. Hòn đảo này thuộc tỉnh Quảng Đông. Với nền khí hậu nhiệt đới nhưng lại thiếu đất nông nghiệp cùng vị trí cảng tốt, các cường quốc thực dân như Anh, Hà Lan và Bồ Đào Nha thà tìm một nơi khác hơn là chọn hòn đảo để làm thuộc địa.

Bỏ rơi lần 2

Năm 1939, trong Thế chiến thứ hai, người Nhật đã chiếm đảo Hải Nam và cai trị hòn đảo trong sáu năm. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Nhật Bản đang rất bận rộn xâm lược những nơi khác ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Họ không chú ý quá nhiều đến việc phát triển đảo Hải Nam. Họ chỉ xây dựng một vài mỏ sắt dọc bờ biển và chỉ thế thôi.

Bỏ rơi lần 3

Năm 1945, sau khi Nhật Bản trả lại Hải Nam cho Trung Hoa Dân Quốc, Quốc Dân Đảng vẫn còn đang bận rộn chiến đấu với phe Cộng Sản. Họ đã dự định biến Hải Nam thành một đặc khu hành chính. Nhưng lại chẳng có dự án nào được đầu tư nghiêm túc trên hòn đảo. Năm 1950, sau khi Tưởng chạy sang Đài Loan. Lực lượng Giải phóng quân Trung Quốc chỉ cần sử dụng vài chiếc thuyền gỗ là có thể đánh bại đội tàu khu trục đóng quân ở Hải Nam và chiếm quyền kiểm soát hòn đảo.

Bỏ rơi lần 4

Sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc tiếp quản Hải Nam, để tiết kiệm chi phí hành chính, họ đã loại bỏ một vài tỉnh của Trung Quốc (có quá nhiều tỉnh đồng nghĩa với chi phí duy trì lớn hơn). Họ đã xóa danh hiệu tỉnh của Hải Nam. Vì vậy, Hải Nam lại được sáp nhập vào tỉnh Quảng Đông một lần nữa vào năm 1950. Tất nhiên, do thiếu tài nguyên và nguồn lực, Hải Nam cũng không nằm trong ưu tiên phát triển của Quảng Đông.

Bỏ rơi lần 5

Mặc dù Đảng Cộng Sản cuối cùng đã phục hồi và phát triển hơn sau thập niên 1970, Hải Nam vẫn được coi là tiền tuyến trong Chiến tranh Việt Nam nơi quân đội và tàu chiến Hoa Kỳ chỉ cách đó 500 km. Về sau này, Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng bận rộn trong Cách Mạng Văn Hóa. Do đó, thật không may, Hải Nam vẫn là một hòn đảo kém phát triển và bị phớt lờ đi trong 20 năm nữa.

PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Thu hút sự chú ý

Mãi đến năm 1984, sáu năm sau khi Đặng Tiểu Bình bắt đầu cải cách kinh tế Trung Quốc, người ta mới nhận ra tầm quan trọng của đảo Hải Nam. Họ muốn Hải Nam trở thành đặc khu kinh tế thứ năm của Trung Quốc nhắm vào Đông Nam Á, với hy vọng thu hút các nhà đầu tư Trung Quốc ở nước ngoài.

Năm 1988, Hải Nam cuối cùng đã được trao quyền trở thành một tỉnh và là một đặc khu kinh tế. Mọi người ở đại lục đều hy vọng rằng Hải Nam có thể phát triển thịnh vượng và ngang hàng với Đài Loan, mặc dù Đài Loan giàu gấp 88 lần Hải Nam xét theo GDP vào thời điểm đó.

Sự tăng trưởng hỗn loạn (1988 – 2008)

Sau khi được nâng lên thành một đặc khu kinh tế, Hải Nam vẫn là một hòn đảo nghèo với 6 triệu dân. Diện tích hòn đảo phần lớn là rừng rậm nhiệt đới và gần như không hề có cơ sở hạ tầng. Các nhà đầu tư không thể đến vì Hải Nam không có cảng, đường bộ và cũng không có điện.

Tồi tệ hơn, chính quyền lãnh đạo ở Hải Nam đã nghĩ rằng một đặc khu kinh tế nên được “tự do” và chính phủ nên tránh can thiệp vào các hoạt động kinh doanh ở đây. Với tình trạng vô pháp luật, Hải Nam đã trở thành hang ổ của bọn tội phạm. Cùng với đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ xô mua đất trên đảo nhưng lại để không. Chẳng hề có một dự án phát triển kinh tế nào được thực hiện. Giá nhà đất tăng vọt khiến người dân Hải Nam không thể mua được nhà, những doanh nghiệp địa phương phải rời bỏ hòn đảo. Kết quả là tỉ lệ thất nghiệp tăng cao.

Bắt kịp nhanh chóng (2008 – 2018)

Chính quyền Trung Quốc cuối cùng đã nhận ra sai lầm. Chỉ đơn giản là để Hải Nam được “tự do”, không có nghĩa là nó sẽ mang lại tăng trưởng kinh tế thực sự. Sau nhiều năm thử nghiệm và thất bại ở những nơi khác, Trung Quốc cuối cùng đã tìm ra được “chìa khóa” của sự phát triển và thịnh vượng, đó là xây dựng nên “một nền kinh tế thực thụ”, và tăng cường gắn kết bằng cách mở mang cơ sở hạ tầng. Nhờ vậy, sau nhiều thập kỉ bị quên lãng, Hải Nam cuối cùng đã được phát triển một cách đúng đắn.

Từ năm 2008 đến 2018, chính phủ Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều nguồn lực nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng trên đảo Hải Nam để bắt kịp Đài Loan.

Cho đến năm 2018, Hải Nam đã đạt được những thành tựu sau:

– Đường cao tốc: Hải Nam 1160 km, bằng 117% Đài Loan 989 km.
– Đường sắt: Hải Nam 1033 km, bằng 92% Đài Loan 1114 km.
– Đường tàu cao tốc: Hải Nam 653 km, bằng 186% Đài Loan 350 km
– Tổng thông lượng cảng biển: Hải Nam 200 triệu tấn, bằng 26% Đài Loan 741 triệu tấn.
– Số lượng hành khách tại sân bay (2018): Hải Nam khoảng 45 triệu người từ hai sân bay, gần bằng Đài Loan với hơn 62 triệu người từ bốn sân bay.
– Thu nhập chính phủ: Hải Nam 31 tỉ USD, bằng khoảng 33% thu nhập của chính phủ Đài Loan (90 tỉ USD).

Cho đến năm 2018, GDP của đảo Hải Nam đã đạt 70 tỉ USD, bằng 1/8 GDP của Đài Loan. GDP bình quân đầu người ở Hải Nam là 7851 USD với 9 triệu người, bằng khoảng 30% của Đài Loan (danh nghĩa).

Dựa trên thu nhập của chính phủ (thuế), thông lượng cảng biển và thu nhập trung bình, có vẻ như GDP của Đài Loan đã được đánh giá cao hơn 50% hoặc GDP của Hải Nam đã bị đánh giá quá thấp. Điều này là do các phương pháp định tính GDP khác nhau ở hai hòn đảo. Theo tôi thì khoảng cách kinh tế giữa Hải Nam và Đài Loan chỉ chênh nhau khoảng 4 lần.

TRIỂN VỌNG NÀO CHO ĐẢO HẢI NAM?

Sau khi có một cái nhìn tổng quát về lịch sử của hai hòn đảo, bạn có thể hiểu lý do tại sao Hải Nam không giàu như Đài Loan. Thành thật mà nói, tôi thấy chả công bằng chút nào.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào các yếu tố địa lý. Và thật không may, Hải Nam cũng phải đối mặt với nhiều bất lợi có thể trì trệ sự phát triển kinh tế.

Bãi biển nhiệt đới – Yêu và ghét:

Hãy sử dụng Google Earth và nhìn ngắm sơ lược đảo Hải Nam nào. Toàn bộ hòn đảo về cơ bản được bao quanh bởi những bãi biển nhiệt đới, cát trắng, nắng vàng. Ngược lại, đảo Đài Loan được bao quanh bởi những bãi bùn ở phía tây và các vách đá ở phía đông.

Phóng to vào bất kỳ bờ biển nào của Hải Nam, nơi đây có tất cả những gì bạn mong đợi: những hàng dừa, bãi cát, làn nước trong xanh. Quá hoàn hảo cho một chuyến nghỉ dưỡng phải không?

Hơn thế nữa, khí hậu ở đảo Hải Nam khá giống với Đông Nam Á, vùng khí hậu nhiệt đới với nền nhiệt độ nóng ẩm quanh năm. Những yếu tố tuyệt vời cho một địa điểm du lịch, nhưng không phải cho công việc. Mọi người thường làm việc ít hiệu quả hơn ở đây.

Với phong cảnh tuyệt vời, những bãi biển nhiệt đới và nguồn hải sản phong phú, Hải Nam trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất ở Trung Quốc. Năm 2018, có khoảng 76 triệu khách du lịch đã đến đảo Hải Nam, hầu hết là người Trung Quốc đại lục. Trong khi đó, Đài Loan chỉ đón tiếp 10 triệu khách du lịch vào năm 2018 và chỉ có khoảng 4 triệu người đến từ Trung Quốc đại lục.

Các bãi biển ở Hải Nam rất đẹp, theo kinh nghiệm của tôi, thậm chí có thể sánh ngang với các bãi biển Philippines. Nếu bạn giàu, hãy tận hưởng một chuyến du lịch ở các khu nghỉ dưỡng cao cấp và biệt thự sang trọng được xây dọc theo các bãi biển tư nhân.

Tuy nhiên, nếu bạn nghèo, hãy tránh xa các bãi biển công cộng ở Hải Nam trong các ngày lễ của Trung Quốc. Chỉ riêng Tết Nguyên Đán, hòn đảo đã đón hơn 6 triệu khách du lịch từ Trung Quốc đại lục. Hãy tưởng tượng toàn bộ dân số Thụy Sĩ đến Hải Nam chỉ trong vòng một tuần!

Đó là lý do tại sao Hải Nam kiếm được nhiều tiền hơn từ du lịch so với Đài Loan. Tuy nhiên, chỉ dựa vào khách du lịch thì không thể mang lại nguồn lợi lớn cho tất cả người dân trên đảo. Hầu hết mọi người không thể làm giàu chỉ bằng nghề du lịch. Và đó cũng là vấn đề của Thái Lan. Người dân Hải Nam cần tìm các nguồn thu nhập khác để có thể thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Để phát triển kinh tế, người dân Hải Nam có thể sẽ phải ghét những bờ biển xinh đẹp của họ.

Các bãi cát đó chính là đỉnh của những thềm lục địa dưới biển. Các thềm lục địa thường rất nông, khiến cho nhiều tàu khó cập cảng. Đồng thời khiến việc xây dựng cảng biển hỗ trợ vận chuyển trọng tải cao là vô cùng khó khăn.

Ví dụ, cảng lớn nhất ở Hải Nam là cảng Tú Anh Hải Khẩu, chỉ có thể hỗ trợ tàu trọng tải 50 nghìn tấn tại 2 điểm cập cảng.

Trong khi đó, cảng lớn nhất ở Đài Loan, Cảng Cao Hùng, có thể hỗ trợ tàu trọng tải 150 nghìn tấn tại 24 điểm cập cảng.

Bạn có thể hiểu tại sao Hà Lan, Anh Quốc và sau này là Nhật Bản chọn Cao Hùng ở Đài Loan làm cảng giao thương chính thay vì Hải Nam. Bởi hòn đảo có một cảng biển tự nhiên tốt (giống như Hồng Kông). Và bạn cũng có thể hiểu tại sao Hải Nam bị phớt lờ trong cả một thế kỷ do thiếu cảng tốt.

Không có cảng biển tốt, chi phí vận chuyển hàng hóa trở nên vô cùng đắt đỏ. Chi phí cho nhiên liệu và khí đốt cao, khiến chi phí điện, sản xuất và giao thông trở nên đắt đỏ hơn. Các sản phẩm nông nghiệp, khoáng sản và các hàng hóa khác của hòn đảo cũng tốn nhiều chi phí hơn để vận chuyển vào đất liền.

Không có mạng lưới giao thông tốt, Hải Nam thực sự rất khó phát triển các ngành công nghiệp. Để tôi cho bạn một ví dụ đơn giản trong nông nghiệp.

Giả sử bạn là một nông dân trồng vải thiều ở đảo Hải Nam. Bạn đã mua một mảnh đất nông nghiệp ở Hải Nam và đã trồng một vài héc ta vải. Trong vụ thu hoạch, một điều vô cùng quan trọng là những trái vải mới hái phải được vận chuyển đến đại lục chỉ trong vòng ba ngày. Chỉ có 9 triệu người ở Hải Nam và họ không thể tiêu thụ hết số vải thiều. Hơn nữa, có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trồng vải khác ở Hải Nam đang cố gắng hạ giá thành.

Bạn sẽ làm gì đây?

Vận chuyển hàng tấn vải thiều bằng đường hàng không? Cái đó quá đắt. Nhưng bạn có thể làm điều đó cho những quả vải cao cấp.

Vận chuyển hàng tấn vải thiều bằng tàu? Hãy cùng nhau làm một bài toán nhé. Bạn cần nửa ngày để mang vải lên xe và vận chuyển đến cảng Tú Anh Hải Khẩu ở phía bắc. Và nửa ngày nữa để mang tất cả vải vào một container đông lạnh của một con tàu. Tàu sẽ mất một ngày để đến cảng Quảng Châu và nửa ngày nữa để đến chợ đầu mối Quảng Châu. Chợ đầu mối sẽ phân phối vải thiều của bạn cho tất cả các thành phố lớn ở Trung Quốc thông qua tàu cao tốc hoặc xe tải.

Bạn nghĩ nông dân Hải Nam có thể cạnh tranh được với những nông dân trên đất liền không? Tất nhiên là không.

Có rất nhiều nông dân trồng vải thiều ở Trung Quốc đại lục. Tất cả những gì họ cần làm chỉ là thuê một chiếc xe tải và mang nông sản đến chợ đầu mối gần nhất để phân phối cho toàn bộ Trung Quốc đại lục bằng đường cao tốc.

Kết quả là rất có thể bạn sẽ bị đánh bại bởi những người nông dân trên đất liền ở thị trường đại lục. Sẽ tốt hơn khi trồng vải thiều ở đại lục thay vì Hải Nam. Vì vậy, bạn nên bán mảnh đất trồng vải của mình ở Hải Nam và di cư vào đất liền đi.

Ví dụ này cũng áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác bao gồm sản xuất, giáo dục (hệ đại học và cao đẳng), dịch vụ, v.v. Đảo Hải Nam không hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp (trừ ngành du lịch). Nếu bạn có thể làm điều đó rẻ hơn ở đại lục, tại sao lại chọn hòn đảo này? Đó là khái niệm cơ bản của kinh tế, mọi người tối đa hóa lợi nhuận khi chọn địa điểm kinh doanh.

Đối với Đài Loan, vấn đề này ít nghiêm trọng hơn vì hòn đảo có các ngành công nghiệp đã phát triển độc lập trong nhiều thập kỷ. Vẫn còn một vài ngành công nghiệp kĩ thuật cao hoặc thương hiệu nổi tiếng ở Đài Loan có khả năng cạnh tranh với Trung Quốc. Tuy nhiên, vì lý do tương tự, hầu hết các ngành công nghiệp nhẹ ở Đài Loan đã chuyển ra khỏi hòn đảo, đến Trung Quốc đại lục và Đông Nam Á để có thể cạnh tranh tốt hơn.

Đường hầm biển Quỳnh Châu

Có giải pháp nào cho nền kinh tế định hướng phát triển hòn đảo không? Nếu đảo gần với đất liền, giải pháp sẽ là sử dụng các phương pháp khác nhau để tăng cường gắn kết với đại lục, giảm chi phí hậu cần, tăng sức hấp dẫn và đa dạng hóa các ngành công nghiệp đặc hữu của đảo.

Một trong những giải pháp rõ ràng và tham vọng nhất là đường hầm xuyên eo biển Quỳnh Châu (琼州海峡隧道), kết nối đảo Hải Nam với đất liền. Dự án này đã được đề xuất từ năm 1999 nhưng vẫn chưa được triển khai.

Đường hầm này sẽ có chiều dài khoảng 30 km, giống với đường hầm Seikan ở Nhật Bản nối liền đảo Honshu với đảo Hokkaido. Tuy nhiên, điều đặc biệt về đường hầm biển Quỳnh Châu là đáy của eo biển này sâu hơn nhiều (khoảng 100 m), khiến công trình này rất khó xây dựng.

Ước tính, đường hầm biển Quỳnh Châu sẽ tiêu tốn hơn 30 tỉ USD, chiếm gần một nửa GDP của toàn bộ hòn đảo. Rất khó có khả năng người dân Hải Nam và người dân Quảng Đông có thể chi trả được số tiền này. Các doanh nghiệp tư nhân cũng sẽ chẳng đầu tư đâu vì đây chắc chắn là một dự án không thể sinh lời.

Đây chính là lúc “chủ nghĩa xã hội” phát huy tác dụng. Đường hầm này chỉ có thể được tài trợ bởi chính phủ Trung Quốc và các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ có thể sẽ mất tiền khi xây dựng đường hầm, nhưng người dân hai bờ eo biển sẽ được hưởng lợi đáng kể. Với đường hầm, nhiều chi phí sẽ được cắt giảm, khuyến khích doanh nghiệp định cư lâu dài trên hòn đảo. Tôi hy vọng chúng ta có thể thấy đường hầm biển Quỳnh Châu có thể được xây dựng trong vài thập kỷ tới.

Theo SPIDERUM.COM

Tags: , , ,