Sức mạnh mềm của Trung Quốc tại Đông Nam Á

Tiềm lực của quân đội Trung Quốc (chưa tính tới tiềm lực vũ khí hạt nhân) đã vượt nhiều lần tiềm lực quân sự của tất cả các nước khác trong khu vực Đông Nam Á cộng lại. Trong lĩnh vực kinh tế, tình hình cũng tương tự như vậy.

Sức mạnh mềm của Trung Quốc tại Đông Nam Á

Lược dịch bài viết của Phó giám đốc Trung tâm phân tích chính trị và quân sự Viện Hàn lâm khoa học Nga Aleksandr Khramchikhin đăng trên báo “Bình luận quân sự độc lập” (Nga) ngày 20/7/2018. Cách khai thác vấn đề và quan điểm địa chính trị khu vực là riêng của tác giả nên có thể nó sẽ gây nên những cuộc tranh luận nho nhỏ, thú vị.

Nếu so với tình hình đang rất nóng ở Trung Cận Đông, Ukraina, Bán đảo Triều Tiên, thì khu vực Đông Nam Á và phần Tây Nam Châu Đại Dương phụ cận trông có vẻ như đang là một khu vực yên bình, nhưng:

TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG

Điểm nóng xung đột địa chính trị nổi bật nhất tại khu vực này vào thời điểm hiện tại – đó là tranh chấp các đảo và mặt nước Biển Đông.

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuy không đưa ra được bất cứ một bằng chứng có sức thuyết phục nào nhưng lại khăng khăng đòi chủ quyền đối với toàn bộ mặt nước Biển này (trừ vùng lãnh hải của các nước ven Biển Đông) và tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa.

Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, còn đối với Trường Sa thì ngoài Việt Nam còn có thêm Philippines, Malaysia, Bruney và Đài Loan (trong vai “người đóng thế” của Trung Quốc”).

Đến thời điểm hiện tại Bắc Kinh đã xây dựng trên một số đảo của hai quần đảo trên các điểm dân cư (thường là các điểm dân cư giả) và các công trình quân sự (trước hết – cho không quân và phòng không) với tính toán rằng bằng cách đó có thể hợp pháp hóa quyền chiếm hữu các đảo đó.

Tại khu vực Quần đảo Hoàng Sa, – đó là với căn cứ quân sự Tây Sa (theo cách gọi của Bắc Kinh). Trung Quốc cũng đã cho xây dựng các công trình cảng biển, đường băng cất hạ cánh máy bay và các trận địa tên lửa phòng không HQ-9 trên đảo Phú Lâm.

Còn trên một số đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép, họ cũng đã triển khai xong một số cứ điểm quân sự trên rạn san hô Đảo Đá Chữ Thập (Fiery Reef) và các đảo khác.

Mặc dù những đảo (rạn san hô) đó có diện tích rất nhỏ, Trung Quốc vẫn cho xây dựng trên các đảo đó nhiều kiểu công trình khác nhau, các đường băng cất hạ cánh, bãi đỗ máy bay lên thẳng, trạm khí tượng, kho chứa nhiên liệu và đạn dược, trận địa tên lửa phòng không và v.v.

QUAN HỆ QUÂN SỰ ĐẶC BIỆT CỦA BẮC KINH TẠI KHU VỰC

Hiện nay, tiềm lực của Các lực lượng vũ trang (Quân đội) Trung Quốc (chưa tính tới tiềm lực vũ khí hạt nhân) cũng đã vượt nhiều lần tiềm lực quân sự của tất cả các nước khác trong khu vực Đông Nam Á cộng lại. Trong lĩnh vực kinh tế, tình hình cũng tương tự như vậy.

Dĩ nhiên, các nước ASEAN cực kỳ quan ngại trước một Trung Hoa “trỗi dậy” nhanh chóng cùng các tham vọng bành trướng lãnh thổ của họ. Còn về phần mình, Bắc Kinh cố “làm yên lòng” các láng giềng phía Nam của mình bằng cách củng cố tối đa quan hệ kinh tế với những nước này.

Ngoài quan hệ kinh tế, quan hệ hợp tác quân sự- kỹ thuật (của Trung Quốc) với các nước trong khu vực cũng được đẩy mạnh, và mối quan hệ hợp tác quân sự này là một chỉ thị kế hiển thị rất rõ mức độ gần gũi về chính trị giữa Trung Quốc với nước này hay nước khác trong khu vực Đông Nam Á.

Mối quan hệ “gần gũi” nhất (của Trung Quốc) tại khu vực này (ASEAN) – đó là mối quan hệ giữa Trung Quốc với Thái Lan và Trung Quốc với Myanmar.

Mối tình hữu nghị giữa Bắc Kinh và Bangkok được “khởi nguồn” từ những năm 80 của thế kỷ trước.

Từ thời điểm đó, quốc gia được coi là “thành viên không chính thức thứ 16 của NATO” này (tức Trung Quốc) đã cung cấp cho Bangkok hơn 50 xe tăng “Type 69”, 450 xe BTR (xe vận tải bọc thép) “Type 85”, hơn 50 khẩu pháo 130 ly “Type 59-1”( bản sao pháo Xô Viết M-46), một số lượng lớn (không có số liệu cụ thể) tổ hợp tên lửa phòng không vác vai HN-5.

Trong những năm 90 sau đó, nhịp độ hợp tác quân sự với Thái Lan có phần nào chững lại. Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian đó Bangkok vẫn nhận được từ Bắc Kinh hơn 100 khẩu pháo phòng không, 4 khinh hạm kiểu “Jianghu” (“Type 053HT”- âm Hán Việt hình như là “Giang hộ” – nếu không chuẩn xin bạn đọc chỉ giáo, tên Thái là “Chao Phraya”) mang tên lửa chống hạm C-801 và 2 khinh hạm kiểu “Naresuan” đóng tại Trung Quốc nhưng khi sang đến Thái Lan lại được trang bị các vũ khí Mỹ, trong đó có tên lửa chống hạm “Harpoon”.

Bước sang thế kỷ XXI, hợp tác quân sự – kỹ thuật giữa hai nước Trung-Thái lại có bước tiến vượt bậc. Thái Lan mua của Trung Quốc 4 tàu hộ vệ và các cơ số đạn tên lửa chống hạm C-802 kèm theo, các hệ thống pháo phản lực phóng dàn SR-4, tổ hợp tên lửa phòng không KS-1, các xe tăng VT-4 (phiên bản xuất khẩu của xe tăng Trung Quốc “Type 96”).

Trung Quốc cũng đã cấp giấy phép cho Thái Lan sản xuất loại pháo phản lực phóng giàn (loạt) mạnh nhất trên thế giới WS-1 (tên gọi tiếng Thái là DTi-1) trên lãnh thổ nước này. Theo kế hoạch thì sắp tới Thái Lan sẽ sắm của Trung Quốc thêm một lô xe tăng VT-4 (không rõ số lượng), không ít hơn 30 BTR (xe vận tải bọc thép) “Type 07” và những chiếc tàu ngầm đầu tiên trong lịch sử Hải quân Thái (có thể là 3 tàu ngầm).

Ngoài ra, Các lực lượng vũ trang Trung Quốc và Thái Lan năm nào cũng tiến hành các cuộc tập trận chung với quy mô và bài tập khác nhau.

Lịch sử tình hữu nghị Trung Quốc và Myanmar có hơi khác (so với quan hệ Trung-Thái) một chút. Đến cuối những năm 1980, Quân đội Myanmar chỉ có trong trang bị kiểu xe tăng duy nhất là xe tăng “Cometa” của Anh sản xuất từ thời Thế chiến thứ hai với số lượng không đến 30 chiếc, một số khẩu pháo cũng ra lò từ thời Thế chiến hai là M101 của Mỹ (100 khẩu).

Vào thời gian đó, Myanmar không có máy bay và máy bay lên thẳng, hải quân nước này chỉ có 10 tàu tuần tiễu cỡ nhỏ do Nam Tư và Đan Mạch sản xuất. Trong khi đó, Quân đội Myanmar có quân số rất đông và thường xuyên phải tiến hành các chiến dịch liên miên và vô vọng chống các nhóm ly khai và băng đảng ma túy.

Trong năm 1988, giới quân sự Myanmar lên nắm quyền. Thế giới Phương Tây phản ứng bằng cách quay lưng lại với nước này và ngay sau đó đã diễn ra tiến trình “xích lại gần nhau thần tốc” giữa Yangoon với Bắc Kinh.

Trong nửa những năm 90, Trung Quốc giúp “đổi mới” toàn bộ lực lượng tăng- thiết giáp của Quân đội Myanmar, cung cấp cho nước này tới 80 xe tăng “Type 69” hơn 100 xe tăng hạng nhẹ “Type-63”, 250 BTR “Type 85”.

Trung Quốc cũng chuyển giao không ít hơn 30 tổ hợp pháo phản lực phóng loạt xe kéo 107 ly “Type 63”, 24 khẩu pháo phòng không 37 ly “Type 74”, gần 200 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai HN-5A.

Trung Quốc “hỗ trợ” Myanmar xây dựng gần như từ đầu một lực lượng không quân “quy chuẩn” bằng cách bán rẻ cho Myanmar 24 máy bay cường kích Q-3, 36 máy bay tiêm kích J-7, 12 máy bay vận tải, nhiều loại vũ khí hàng không. Còn đối với Hải quân Myanmar – Trung Quốc thân tặng 6 tàu mang tên lửa và 10 tàu tuần tiễu cỡ nhỏ.

Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Trung Quốc cung cấp ngày càng nhiều phương tiện kỹ thuật quân sự cho Myanmar.

Nước này đã tiếp nhận từ Trung Quốc 50 xe tăng hiện đại “Type 90-2” (là một trong những phiên bản xuất khẩu của xe tăng “Type 96” Trung Quốc), 200 xe BMP (xe chiến đấu bộ binh) nhiều kiểu khác nhau, đến 50 tổ hợp pháo tự hành và các hệ thống pháo phản lực phóng loạt, 4 đại đội (cơ số) tổ hợp tên lửa phòng không KS-1A, đến 60 máy bay huấn luyện K-8, 12 máy bay không người lái tấn công (UAV) CH-3, 2 khinh hạm “Type 053TH”.

Trung Quốc cũng bắt đầu chuyển giao cho Myanmar các máy bay tiêm kích Trung Quốc hiện đại JF-17 (những máy bay này được sản xuất theo giấy phép của Trung Quốc tại Pakistan).

Ngoài ra, PLA bố trí 3 trạm (cơ sở) đảm bảo vật chất – kỹ thuật cho Hải quân Trung Quốc. Cảng Kyaukpyu của Myanmar là một đầu mối vận chuyển dầu cực kỳ quan trọng, Trung Quốc đang xây dựng đường ống dẫn dầu nối cảng này với các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Bắc Kinh cũng đã lên kế hoạch xây dựng một tuyến đường sắt nối cảng Kyaukpyu với tỉnh Vân Nam Trung Quốc.

Cảng Kyaukpyu còn là một đầu mối cung cấp lương thực, nước sạch và nhiên liệu- dầu mỡ cho các tàu Hải quân PLA. Ngoài cảng Kyaukpyu, Trung Quốc còn sử dụng các cảng Yangoon và Sittwe của Myanmar làm cơ sở đảm bảo vật chất – kỹ thuật cho Hải quân PLA.

Hải quân Trung Quốc đã đưa vào hoạt động một trung tâm điện tử rất lớn trên Quần đảo Coco của Myanmar. Trung tâm này có chức năng dẫn đường cho các tàu ngầm, giám sát radar tình huống trên mặt nước, đảm bảo liên lạc, tiến hành trinh sát và tác chiến điện tử.

Trung Quốc đã lắp đặt một hệ thống đường ống kéo dài từ bờ biển phía Nam Myanmar lên biên giới với Trung Quốc để chuyển dầu mỏ và khi đốt được vận chuyển bằng tàu biển từ Trung Đông và Châu Phi tới (làm như vậy để các tàu chở dầu mỏ – khí đốt Trung Quốc không phải đi qua eo biển Malacca).

Nhưng song song với sự “giúp đỡ” trên cho chính quyền trung ương Myanmar, Trung Quốc lại trực tiếp hỗ trợ các nhóm ly khai Myanmar tại tỉnh biên giới Kokang ở phía Đông Bắc nước này. Trong nửa đầu năm 2015, các nhóm quân ly khai nói trên đã đánh bại Quân đội Myanmar và sau đó hai bên (các nhóm ly khai và chính phủ Myanmar) đã ký một thỏa thuận ngừng bắn do chính Bắc Kinh đứng ra làm trung gian.

QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC KHÁC

Quan hệ hợp tác kỹ thuật quân sự của Trung Quốc với các nước ASEAN khác cũng đang được tăng cường, thêm nữa, những mối quan hệ này cũng có những gốc gác lịch sử rất thú vị.

Nước Campuchia quân chủ (Sihanouk) vào đầu những năm 70 đã được Trung Quốc cung cấp gần 40 các máy bay nhiều kiểu khác nhau (tiêm kích J-2 và J-5, máy bay vận tải Y-5, máy bay huấn luyện CJ-6), còn nước Campuchia dân chủ của Polpot – 20 xe tăng hạng nhẹ “Type 62”, khoảng 200 tổ hợp tên lửa chống tăng HJ-73 và đến 10 máy bay tiêm kích J-5 và J-6. Sau đó, Bắc Kinh ủng hộ bè lũ Polpot ẩn náu trên đất Thái Lan.

Vào đầu những năm 90, Trung Quốc không còn quan tâm mấy đến Campuchia, nhưng trong thời gian gần đây, Campuchia lại là một trong những hướng ưu tiên trong hợp tác kỹ thuật quân sự của Bắc Kinh.

Trong các năm trở lại đây, Phnom Penh đã nhận từ Bắc Kinh 4 tàu tuần tiễu cỡ nhỏ “Type 062-1”, 2 máy bay vận tải MA60, 12 máy bay lên thẳng Z-9 (trong đó có 4 chiếc là phiên bản máy bay lên thẳng tấn công) và 50 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai FN-6.

Nước láng giềng của Campuchia là Lào tính từ năm 2010 đến nay cũng đã được Bắc Kinh chuyển giao 4 máy bay vận tải MA60 và 9 máy bay hạng nhẹ LE-500, 5 chiếc máy bay lên thẳng Z-9.

Quan hệ hợp tác quân sự giữa Bắc Kinh và Philippines cũng có những nét rất đáng chú ý. Như đã biết, có thể nói Philipines là nước thân Mỹ nhất trong các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Những thay đổi đột ngột (trong các tuyên bố về chính sách đối ngoại) do Tổng thống Duterte đưa ra từ khi lên nắm quyền, rất có thể chỉ là những nước cờ lắt léo sách lược nào đó để buộc Mỹ phải đưa ra chính thức cam kết đảm bảo chắc chắn an ninh cho Philippines.

Nhưng cũng không thể hoàn toàn loại trừ việc “tự diễn biến” của Manila là có thật, bởi vì, theo kinh nghiệm của nhiều nước và các chủ thể phi nhà nước, một liên minh với Mỹ trong thời buổi hiện đại có điều gì đấy làm ta nhớ tới một phương pháp tự sát tinh tế. Và một khi đã không trông mong gì từ phía Washington, Philippines buộc phải nghiêng mình trước Bắc Kinh và nhỏ nhẹ hơn trong các tuyên bố chủ quyền.

Tháng 10/2017, Bắc Kinh chuyển giao lô súng bộ binh, đạn dược và các trang bị quân sự đầu tiên cho Các lực lượng vũ trang Philippines để hỗ trợ nước này trong cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố.

Động thái này của Bắc Kinh làm mọi người thấy ngay rằng mục đích duy nhất của những “khẩu súng được bàn giao trên” từ phía Bắc Kinh là củng cố mối quan hệ chính trị với Manila dưới thời Duderte, chứ tuyệt đối không liên quan gì đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố tại Mindanao vốn không hề có ý nghĩa gì đối với Trung Quốc.

Indonesia, Malaysia, Bruney và Singapore cũng ngày càng ít công khai bộc lộ những bất bình của mình đối với chính sách của Bắc Kinh. Bắc Kinh cũng có những quan hệ hợp tác kỹ thuật quân sự nhất định với nhóm nước này. Ít nhất thì đến thời điểm hiện tại Malaysia và Indonesia đã mua các tổ hợp tên lửa phòng không vác vai của Trung Quốc, riêng Indonesia còn mua thêm cả các tên lửa chống hạm.

Ngay cả Australia, một quốc gia láng giềng với khu vực Đông Nam Á từng có lúc được coi là đồng minh thân Mỹ còn hơn cả Anh cũng đã bắt đầu phần nào tỏ ra mềm mỏng hơn trước sức ép từ Trung Quốc. Nước này ngày càng phụ thuộc sâu hơn vào quan hệ thương mại với Trung Quốc và nguồn vốn đầu tư từ Trung Quốc, cộng đồng người Trung Quốc tại Australia đang ngày càng đông. Chính vì thế mà Australia ngày càng ít muốn “cãi nhau” với Trung Quốc hơn, mặc cho Washington nghĩ thế nào thì nghĩ.

Hiện tuy giữa hai nước vẫn chưa thiết lập mối quan hệ hợp tác kỹ thuật quân sự, nhưng hợp tác quân sự thì đã có. Tháng 9/2017, các phân đội của Bộ Tư lệnh Quân khu Nam PLA và các phân đội Quân đội Australia đã tổ chức cuộc tập trận chung mang tên “Panda- Kangaroo” tại tỉnh Vân Nam Trung Quốc.

Trong các năm 2015 và 2016, các cuộc tập trận chung tương tự cũng đã được tiến hành trên lãnh thổ Australia. Cuộc tập trận năm 2017 kéo dài tới 10 ngày. Các quân nhân tham gia đã thực hiện các bài tập tiến hành các hoạt động quân sự chung trong các điều kiện khí hậu – tự nhiên phức tạp (trên núi và trong rừng rậm nhiệt đới), trong đó có cả các bài tập vượt sông, hồ và rên luyện kỹ năng tồn tại.

Tuy mỗi bên chỉ cử 10 quân nhân tham gia nhưng điều quan trọng nhất nằm ở chỗ đây là cuộc tập trận chung giữa PLA với quân đội một nước đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Thêm nữa, cuộc tập trận này không mang tính hình thức, mà có một ý nghĩa thực tế đối với hai quân đội nếu xét từ góc độ quân sự. Một mục tiêu nữa của các cuộc tập trận này là xây dựng lòng tin giữa hai nước.

Kết quả là trong tương lai gần chỉ còn “Đông Phổ của Đông Nam Á” – tức Việt Nam là chưa có quan hệ hợp tác kỹ thuật quân sự với Bắc Kinh. Sau khi chiến thắng Pháp, Mỹ và cả chính Trung Quốc trong nửa sau của thế kỷ XX, nước này không quen với việc khuất phục trước một ai đó…

LẬP TRƯỜNG CỦA MOSKVA

Do tình hình ở Đông Nam Á không trực tiếp đụng chạm đến những lợi ích kinh tế và chính trị quan trọng bậc nhất của Nga nên Moskva cho đến bây giờ vẫn né tránh đưa ra một lập trường chinh thức nào đó về vấn đề này.

Moskva vừa không muốn gây mâu thuẫn với Trung Quốc trong bối cành quan hệ với Phương Tây ngày càng xấu đi như hiện nay, vừa vẫn xác định các nước ASEAN là đối tác hợp tác quân sự – kỹ thuật quan trọng, đồng thời cũng là một đối trọng địa chính trị tiềm năng với Trung Quốc trong tương lai.

Ngoài ra, các công ty “Rosnheft” và “Gazprom” (Nga) đang tích cực tham gia vào các dự án khai thác mỏ dầu của Việt Nam trên thềm lục địa đang tranh chấp trên Biển Đông.

Tháng 4/2012, “Gazprom” Nga và “Petrovietnam” đã ký thỏa thuận khai thác hai mỏ khí đốt trên thềm lục địa tại khu vực Quần đảo Trường Sa. Phía Trung Quốc đã phản ứng bằng cách gửi công hàm phản đối vì cho rằng các hoạt động thăm dò khai thác theo thỏa thuận được thực hiện trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Trung Quốc trên Biển Đông.

Năm 2016, cuộc tập trận hải quân chung Nga – Trung trên Biển Đông đã bị thế giới đánh giá là một hành động ủng hộ Bắc Kinh từ phía Moskva.

Cùng thời gian đó, Moskva cũng tỏ ý ủng hộ Bắc Kinh trong việc phớt lờ phán quyết của Hội đồng Trọng tài của Tòa Trọng tài Thường trực tại Lahay theo đơn kiện của Manila (bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc) và động thái trên của Moskva được coi là sự ủng hộ hoàn toàn của Moskva đối với lập trường của Bắc Kinh (ngay cả Bắc Kinh cũng nghĩ như vậy).

Nhưng trên thực tế, các cuộc tập trận (chung Nga – Trung) “Phối hợp biển” được tiến hành thường niên từ năm 2012. Trong những năm chẵn – các cuộc tập trận đó được tiến hành trong khu vực chịu trách nhiệm của Hải quân PLA, còn trong các năm lẻ – trong khu vực chịu trách nhiệm của Hải quân LB Nga.

Về mặt lý thuyết, phía Nga có thể tiến hành các cuộc tập trận tại các vùng biển chịu trách nhiệm của phân hạm đội Primorski, hoặc của phân hạm đội Kamchatka (thuộc biên chế Hạm đội Thái Bình Dương Nga), nhưng Nga chỉ cho tiến hành các cuộc tập trận biển trong khu vực chịu trách nhiệm của Phân hạm đội Primorski (trên Biển Nhật Bản gần cảng Valdivostok).

Phía Trung Quốc tiến hành luân phiên các cuộc tập trận chung này trên những khu vực chịu trách nhiệm của 3 hạm đội: năm 2012 – Hạm đội Bắc Hải, năm 2014 – Hạm đội Đông Hải.

Thành thử, năm 2016 đến lượt Hạm đội Nam Hải với khu vực chịu trách nhiệm là Biển Đông. Không thể tiến hành tập trận được ở bất cứ nơi nào khác.

Nếu Moskva từ chối tham gia, một quyết định như vậy sẽ được coi là một thách thức trực tiếp đối với Trung Quốc, điều mà Moskva dĩ nhiên là không muốn, nên cuộc tập trận “theo phiên” này đứt khoát không phải là một cử chỉ của Moskva ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong cuộc xung đột trên Biển Đông – đây là một cuộc tập trận định kỳ chứ không phải là đột xuất và địa điểm tiến hành đã được xác định từ trước đó rất lâu.

Hơn nữa, chính Moskva đã chủ động yêu cầu thu gọn quy mô cuộc tập trận (trên Biển Đông năm 2016) và địa điểm tập trận được chọn cách rất xa khu vực tranh chấp.

Cuộc tập trận này được tiên hành ven bờ biển tỉnh Quảng Đông, có nghĩa là ngay sát cạnh phần lục địa của Trung Quốc, nơi không có bất cứ ai đưa ra các yêu sách về chủ quyền. Và như vậy, Moskva đã làm tất cả những gì có thể để thể hiện lập trưởng trung lập. Trong năm 2018 này, cuộc tập trận “Phối hợp biển” sẽ lại được tiến hành trong khu vực chịu trách nhiệm của Hạm đội Bắc Hải PLA.

Còn về chuyện Nga đứng về phía Trung Quốc khi không thừa nhận phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực tại Lahay như đã nói ở trên, thì trong trường hợp này Moskva không ủng hộ Bắc Kinh, mà là lại một lần nữa thể hiện một thái độ là về nguyên tắc, Moskva cũng sẽ không chấp nhận những phán quyết tương tự.

Lý do – rất có thể Tòa Lahay lại cũng đưa ra những phán quyết như vậy đối với Nga (ví dụ, như về vấn đê chủ quyền đối với Crimea hoặc các đảo của Quần đảo Kuril chẳng hạn). Có nghĩa là trong trường hợp này Moskva theo đuổi lập trường mang tính nhất quán và nguyên tắc chung, chứ không phải là quan điểm về một vụ việc cụ thể nào đó.

Nhìn chung, đến cách đây không lâu thì Moskva đã cố không chỉ giữ trung lập, mà còn làm ra vẻ hoàn toàn “không nhận thấy” vấn đề và vì thế – không đưa ra một sự lựa chọn nào.

Dù sao thì Moskva cũng không thể đứng mãi ngoài cuộc, đặc biệt là vào giai đoạn khi mà giới lãnh đạo Nga liên tục nhắc tới vị thế toàn cầu của nước mình và tuyên bố sẵn sàng tham gia vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu quan trọng nhất. Hơn nữa, dù khu vực Đông Nam Á không có đường biên giới chung với Nga, nhưng cũng không cách Nga quá xa.

Cuối cùng thì Moskva cũng bắt đầu lên tiếng kêu gọi “giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình có tính tới lợi ích của tất cả các bên” đồng thời “bày tỏ mong muốn” giải quyết vấn đề trên cơ sở song phương (có nghĩa là riêng rẽ giữa Trung Quốc với Việt Nam, Trung Quốc với Philippines, Trung Quốc với Malaysia) và không có sự can thiệp của những nước không liên quan đến khu vực này, dĩ nhiên, ai cũng hiểu là nước mà Moskva muốn nói tới đó chính là Mỹ.

Có lẽ Moskva có thể có một thái độ rõ ràng hơn trong vấn đề giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông, nếu như tại khu vực này xuất hiện một lợi ích rất có ý nghĩa nào đó (đối với Nga).

Cụ thể như xây dựng căn cứ quân sự Nga tại khu vực, hoặc là các công ty Nga tham gia vào các hợp đồng khai thác các mỏ dầu và khí đốt lớn, hoặc là một trong các nước trong khu vực mua một khối lượng rất lớn vũ khí Nga. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại thì ngay cả đến Việt Nam cũng chưa tạo cho Nga một cơ hội nào như vậy, chứ chưa nói tới những nước khác.

Về phần mình, Trung Quốc dĩ nhiên là muốn có một sự ủng hộ cụ thể hơn từ phía Moskva đối với lập trường của mình trong vấn đề chủ quyền đối với các đảo trên Biển Đông, nhưng để có được sự ủng hộ đó chính bản thân Trung Quốc cũng phải thể hiện sự ủng hộ Nga mạnh mẽ hơn rất nhiều trong những vấn đề mang tính nguyên tắc khác (Crimea, Ukraina, Syria và v.v), nhưng hiện chưa thấy có bất cứ chỉ dấu nào cho thấy Bắc Kinh sẽ làm như vậy.

Ngoài ra, rất có khả năng là Bắc Kinh cũng đoán ra rằng nếu Moskva đưa ra một sự lựa chọn dứt khoát có lợi cho Bắc Kinh thì quyết định đó sẽ buộc các nước ASEAN nghiêng nhiều hơn về phía Mỹ và viễn cảnh đó chắc gì đã có lợi cho Bắc Kinh.

Và nói chung, nếu như Washington vẫn tiếp tục lập trường chống Trung Quốc cứng rắn trong những vấn đề liên quan đến xung đột trên Biển Đông như hiện nay thì điều đó sẽ tư động đẩy Moskva gần Trung Quốc hơn hiện nay. Nhưng nếu như Mỹ hạ nhiệt, lập trường của Nga vẫn sẽ là tương đối trung lập.

Theo ĐẤT VIỆT ONLINE

Tags: , , , , ,