⠀
Những nhân vật cải cách trong lịch sử Việt Nam: Bài học cho hiện tại
Cải cách chỉ có thể thành công khi thời cơ đã chín muồi và người lãnh đạo nắm bắt đúng thời cơ.
1. Cải cách, đổi mới cũng như cách mạng đều xuất phát từ yêu cầu giải quyết các cuộc khủng hoảng xã hội. Cao nhất là khủng hoảng toàn diện, thường phải tiến hành cách mạng và thường phải dùng đến bạo lực vũ trang. Còn cải cách, đổi mới đều là thực hiện trong hòa bình.
Khi tình thế cách mạng chưa chín muồi vẫn có thể tiến hành cải cách, đổi mới để chuẩn bị đón cách mạng như ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ thứ XX. Còn khủng hoảng cục bộ thì có thể tiến hành cải cách bộ phận như cải cách hành chính, cải cách tài chính, cải cách giáo dục… Đổi mới cũng có thể bao hàm cả cải cách bộ phận, như hiện nay chúng ta đang cải cách hành chính, cải cách giáo dục… Đổi mới có khi nhằm chuyển giao quyền lực một cách nhanh gọn như từ Lý sang Trần, nhưng cũng có khi cần kéo dài, như nhà Lý “đổi mới xã hội” sau khi dời đô ra Thăng Long, hay ngày nay, đổi mới của chúng ta đã tiến hành gần 1/4 thế kỷ, từ sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Cả ba hình thái: cách mạng, đổi mới, cải cách thường bắt đầu từ đổi mới tư duy, phủ định tư duy cũ bằng tư duy sáng tạo, được đúc kết từ thực tiễn. Khúc Thừa Dụ đã đổi mới tư duy trong quản lý quốc gia, coi trọng việc nắm chính quyền từ dưới lên, từ thôn xã đến châu, huyện, trái với nền thống trị trước đó chỉ nắm chính quyền từ trên xuống, tức từ thái thú đến quận lệnh, huyện lệnh mà không nắm được dân. Đồng thời, thay thế chính sách thống trị tàn bạo, hà khắc của bọn xâm lược bằng chính lệnh “khoan, giản, an, lạc” khiến dân quý, dân tin, giành được quyền tự chủ cho dân tộc… Lý Công Uẩn thì hiểu được nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long với thế “Rồng cuộn hổ ngồi, bốn phương tụ hội…”, tức là nắm khâu cơ bản để từ “Đổi mới đế đô đến đổi mới xã hội”.
3. Điều quyết định nhất cho thành công của cải cách, đổi mới là ở vị trí, vai trò, phẩm chất, tài năng của nhân vật đề xướng và lãnh đạo. Đào Duy Từ đổi mới vị thế xã hội của mình, từ chỗ là “xướng ca vô loài” vượt lên tới tước hầu, rồi đem tài năng ra đổi mới xã hội. Nguyễn Trường Tộ tài năng đề xướng cải cách là xuất chúng nhưng hiệu quả cải cách không nhiều vì không có vị thế chỉ huy. Còn phẩm chất, đạo đức, tài năng thì tầm quan trọng của nó khỏi phải nói : Khúc Thừa Dụ, Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lê Thánh Tông cho đến Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, đức độ, tài năng ít ai bì kịp.
4. Cải cách chỉ có thể thành công khi thời cơ đã chín muồi và người lãnh đạo nắm bắt đúng thời cơ : Khúc Thừa Dụ không thể thành công nếu không cải cách đúng thời cơ khi phong kiến Tùy – Đường lâm vào khủng hoảng “thập quốc ngũ đại”. Lý Công Uẩn chỉ có thể đổi mới được triều đại khi khủng hoảng cung đình Tiền Lê thời Lê Ngọa Triều lên tới cực điểm. Còn Hồ Quý Ly thì tiến hành cải cách lúc thời cơ chưa thuận lợi, quân Minh tới xâm lược. Yếu tố bên ngoài đã phá hoại cải cách chứ không phải thất bại là từ yếu tố bên trong.
5. Có thời cơ nhưng lãnh đạo phải có tài năng đề ra mục tiêu chính xác và có các biện pháp đúng. Cải cách của Hồ Quý Ly có mục tiêu đúng nhưng biện pháp lại nửa vời như “hạn điền, hạn nô”… nên kết quả cũng là nửa vời ngay cả khi chưa bị bọn xâm lược phá hoại. Cải cách tài chính của Trịnh Cương do mục tiêu hạn chế, biện pháp chỉ có tính chất tình thế nên kết quả rất hạn hẹp, chỉ đạt ở mức tình thế và nhất thời. Khủng hoảng cơ bản và lâu dài vẫn tồn tại khiến nhà Trịnh sau Trịnh Cương ngày càng xuống dốc.
Những bài học kinh nghiệm trên đây mới là sự đúc rút bước đầu. Mong được bổ sung, hoàn chỉnh thêm để phục vụ cho tiến bộ xã hội ngày càng lớn lao trong nền văn minh trí tuệ sắp tới.
Theo GS. VĂN TẠO / BÁO QUẢNG NAM
Tags: Nhân vật cải cách trong lịch sử Việt Nam, Chiến lược phát triển