Vạch trần trò bịp ‘Trịnh Hòa chiếm Hoàng Sa, Trường Sa năm 1413’

Sự kiện bảy lần đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà là có thật. Nhưng chuyện Trịnh Hoà đánh chiếm Chiêm Thành và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1413 chỉ là chiến dịch tuyên truyền bịa đặt, bóp méo sự thật nhằm mục đích phục vụ cho ý đồ chính trị và tham vọng bành trướng của Trung Quốc hiện nay.

Sau dịp kỷ niệm 600 năm Trịnh Hoà đi sứ Tây Dương, các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc khuyếch trương sự kiện này như là một trong những biểu tượng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa. Báo Nhân dân Giải phóng quân ở Bắc Kinh khẳng định đô đốc Trịnh Hòa đã từng cùng tàu chiến và tàu buôn ghé qua quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào thời gian diễn ra Thế vận hội Bắc Kinh và Hội chợ quốc tế Thượng Hải, Trung Quốc phát động chiến dịch tuyên truyền rằng trong chuyến đi sứ thứ tư đến Tây Dương (1413-1415), Đô đốc Thái giám Trịnh Hòa đã đánh chiếm Chiêm Thành trên lục địa và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông vào năm 1413. Trung Quốc coi đó là những chứng cứ chứng minh rằng hai quần đảo này từ thời nhà Minh đã thuộc chủ quyền của Trung quốc.

Qua sử liệu xác thực, người ta có thể khẳng định rằng sự kiện bảy lần đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà là có thật và đây thực sự là một sự kiện đáng tự hào của nhân dân Trung Quốc. Nhưng chuyện Trịnh Hoà ghé qua hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đánh chiếm Chiêm Thành và hai quần đảo này vào năm 1413 trong thời gian đi sứ Tây Dương thì quả thật là một nghi vấn lớn. Chúng ta cần phải xem xét và nghiên cứu nghiêm túc bối cảnh lịch sử của sự kiện tại Trung Quốc và trong khu vực, bản thân nhân vật Trịnh Hoà, mục đích chuyến đi sứ của Trịnh Hoà được ghi chép trong sử, sách cổ Trung Quốc và những công trình nghiên cứu sau này của cả những học giả Trung Quốc và học giả nước ngoài về các chuyến đi sứ của Trịnh Hoà thì mới làm sáng tỏ được nghi vấn trên.

Bối cảnh lịch sử các chuyến đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà

Niên hiệu Hồng Võ năm thứ ba mươi mốt (1398), Chu Nguyên Chương chết. Các con cháu vị Hoàng đế này bắt đầu chém giết lẫn nhau để chiếm ngôi báu. Niên hiệu Kiến Văn nguyên niên đời Minh Huệ Đế (1399), Yên vương Chu Đệ khởi binh tại Bắc Bình (nay là Bắc Kinh), bắt đầu tấn công để mưu chiếm đoạt ngôi Hoàng đế của người cháu ruột là Kiến Văn Đế Chu Doãn Văn. Kiến Văn năm thứ 4 (1402), quân của Yên vương Chu Đệ tiến đánh kinh sư (nay là Nam Kinh, tỉnh Giang Tô). Sau sự kiện binh biến này, có truyền thuyết cho rằng Kiến Văn Đế đã “cải trang làm Hoà thượng bỏ trốn”.

Thời bấy giờ, quan tâm của Trung Quốc đối với các nước xung quanh cũng mờ nhạt. Đến khi Minh Thành Tổ lên ngôi thì nhiều quốc gia tại vùng Đông Nam Á không còn thần phục và triều cống nhà Minh nữa. Điều đó đối với Chu Đệ, người tự coi mình là “Thiên Triều Thượng Quốc” cảm thấy không hài lòng. Chính vì vậy, ngay từ khi lên ngôi, Minh Thành Tổ đã muốn khoa trương uy quyền nước lớn ra ngoài biên giới Trung Quốc. Ở phía Bắc, Trung Quốc tấn công Mông Cổ. Tại phía Nam, Trung Quốc tiến hành cuộc viễn chinh xâm lược Đại Việt vào năm 1407 nhưng bị quân dân Đại Việt đánh cho tơi bời. Năm 1427, tướng Minh là Vương Thông phải đến “Hội thề Đông quan” xin nguyện không bao giờ xâm phạm đất Đại Việt nữa. Minh Thành Tổ cũng muốn vượt biển, tới các nước khác ở vùng Đông Nam Á và Trung Á để khoa trương uy quyền, bắt các nước phải thần phục và triều cống Trung Quốc. Hai năm sau khi lên ngôi (1405), Minh Thành Tổ cho đóng một hạm đội mạnh nhất đương thời, giao cho một viên hoạn quan có tên là Trịnh Hoà chỉ huy đi sứ Tây Dương. Dưới đời nhà Minh, theo người Trung Quốc, Tây Dương bao gồm khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ và phần phía Đông của châu Phi.

Nhân vật Trịnh Hoà

Trịnh Hòa là một người Hồi và phục vụ bên cạnh Hoàng đế thứ ba của nhà Minh làMinh Thành Tổ (trị vì từ năm 1403 đến năm 1424). Theo tiểu sử của ông trong Minh sử, ông có tên thật là Mã Tam Bảo (馬三保), quê ở Côn Dương (昆阳, ngày nay là Tấn Ninh(晋宁), tỉnh Vân Nam. Ông là hậu duệ đời thứ 6 của Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar, một viên quan cai trị tỉnh Vân Nam thời nhà Nguyên và đến từ Bukhara, ngày nay thuộcUzbekistan. Khi căn cứ cuối cùng của Mông Cổ ở Vân Nam bị xoá sổ, Tam Bảo bị quân nhà Minh bắt và bị hoạn vào năm 11 tuổi. Trong những năm niên hiệu Hồng Võ, Tam Bảo vào cung làm một tiểu hoạn quan, lúc ban đầu làm việc tại phủ riêng của Chu Đệ (tức là Minh Thành Tổ sau này). Trong vụ chính biến chống Kiến Văn Đế Chu Doãn Vương, Tam Bảo lập được nhiều chiến công nên được Minh Thành Tổ cất nhấc lên làm Thái giám, đồng thời, được ban tên là Trịnh Hoà. Người đời ấy quen gọi ông ta là Tam bảo Thái giám. Niên hiệu Vĩnh Lạc thứ hai (1404), Trịnh Hoà được cử giữ chức Thái giám trông nom tất cả hoạn quan trong cung, sau được thăng chức Lễ giám Chưởng Ấn Thái giám, trở thành một nội thần đắc lực của Minh Thành Tổ, đồng thời, phụng mệnh Minh Thành Tổ chỉ huy một đoàn thuyền đi sứ Tây Dương nhằm ba mục đích. Một là, để điều tra tìm hiểu xem Kiến Văn Đế có trốn ra ẩn náu ở nước ngoài hay không. Hai là, muốn tạo nên một thanh thế lớn để lôi kéo nhân tâm trong nước, nhằm thay đổi tình hình chính trị bất lợi sau vụ binh biến xảy ra. Ba là, bảo vệ uy quyền của mình tại khu vực Đông Nam Á và Trung Á, để buộc các nước ở khu vực này phải tới triều cống. Qua đó, đề cao “uy danh của đất nước” để đề cao tiếng tăm của mình.

Như vậy, mục tiêu chính của các chuyến đi của Trịnh Hoà là thực hiện sứ mệnh ngoại giao, không phải là những cuộc chinh phục.

Ghi chép của sử sách Trung Quốc về các chuyến đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà

Theo Minh Sử, dưới đời Minh Thành Tổ (Vĩnh Lạc) và Minh Tuyên Tông (Tuyên Đức), Trịnh Hoà đã bảy lần thám hiểm Ấn Độ Dương hay Tây Dương nằm về phía Tây Trung Quốc. Về chuyến đi thứ tư (1413-1415), Minh Sử chỉ ghi Trịnh Hòa đã đến Ấn Độ, Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải và Đông châu Phi.

Theo cuốn Lịch sử Trung Quốc thời Trung Cổ thì trong 28 năm, từ năm 1405 đến năm 1433, đội thuyền của Trịnh Hòa đã viếng thăm hơn 30 quốc gia duyên hải tại Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Các địa điểm xa nhất là Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải về phía Tây Bắc, và Đông châu Phi về phía cực Tây Ấn Độ Dương. Các tác giả gọi đó là những chuyến đi về ngoại giao và thương mại.

Ngoài ra cuốn Vũ Bị Chí do Mao Nguyên Nghi soạn năm 1621 cũng tường thuật về bảy chuyến đi sứ Tây Dương, trong đó cho biết Trịnh Hòa chỉ đi qua Biển Nam Hoa để khai phá Ấn Độ Dương. Thông thường mỗi chuyến hải trình kéo dài 2 năm.Trong ba chuyến đi đầu tiên (1405-1411), phái bộ Trịnh Hòa xuất phát từ Phúc Kiến, tới Phi Luật Tân, Nam Dương và Mã Lai tại Thái Bình Dương, và đến Ấn Độ Dương tại Tích Lan và Calicut về phía Tây Ấn Độ. Trong các chuyến đi thứ tư (1413-1415) và chuyến đi thứ năm (1417-1419), Trịnh Hòa đã đi qua Ấn Độ tới Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải và sau đó đi đến các địa điểm xa nhất tại Đông châu Phi về phía cực Tây Ấn Độ Dương. Sau khi Minh Thành Tổ mất năm 1424, Trịnh Hòa không còn được trọng đãi. Dưới đời Minh Nhân Tông, do sự phản đối quyết liệt của các triều thần các chuyến đi của Trịnh Hoà bị đình chỉ. Mãi 9 năm sau, năm 1431, dưới triều Minh Tuyên Tông Trịnh Hòa mới thực hiện chuyến đi cuối cùng (1431-1433). Tuy vậy, trong chuyến đi này, Trịnh Hoà cũng chỉ đi đến Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải và Đông châu Phi, địa điểm xa nhất là Malindi nằm ở phía Nam đường xích đạo.

Học giả người Trung Quốc trong thời hiện đại viết về các chuyến đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà

Trong cuốn sách “Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc” do Nhà xuất bản Niên Luân – Đài Bắc, ấn hành năm 2000, tác giả Cát Kiếm Hùng đã nghiên cứu nhiều sử liệu Trung Quốc về các chuyến đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà và mô tả lại khá chi tiết về các chuyến đi này. Trong gần ba chục năm, Trịnh Hoà đã lần lượt đi Tây Dương trước sau đến bảy lần, chỉ huy một đoàn thuyền đông đến cả vạn người, vượt biển đến hơn ba chục nước, mở con đường hàng hải từ Trung Quốc đến vịnh Ba Tư, Hồng hải và bờ biển phía Đông của châu Phi. Các nước Đông Nam Á được Cát Kiếm Hùng nhắc đến trong các chuyến đi sứ của Trịnh Hoà gồm Chiêm Thành (thuộc trung bộ Việt Nam ngày nay), Java (tức đảo Java của Indonesia ngày nay), Palembang (Indonesia), Malacca, Aru (nay là trung bộ đảo Sumatra), Samudra (một cổ quốc nằm về phía bắc của đảo Sumatra), Lamuni (thuộc đảo Sumatra) và Xiêm La.

Về hoạt động chính của chuyến đi, Cát Kiếm Hùng viết : “Đứng về mặt chủ quan mà xét, Minh Thành Tổ phái Trịnh Hoà đi Tây Dương là muốn đề cao địa vị của nhà vua này ở hải ngoại, mở rộng ảnh hưởng chính trị của ông ta, mà điều quan trọng nhất là tuyên dương oai đức của nhà vua để từ đó mở rộng hoạt động ngoại giao hoà bình. Do vậy, nhóm người của Trịnh Hoà đến các nước ở hải ngoại bất luận là nước lớn hay nước nhỏ đều được xem như nhau. Những nơi họ đến đều được người địa phương cảm phục, và tỏ ra có đạo đức. Trong mấy lần đi sứ của Trịnh Hoà, mỗi khi tới địa phương nào, thì trước hết ông tuyên đọc chiếu sắc của vương triều nhà Minh trước mặt quốc vương hoặc tù trưởng rồi kế đó mới ban thưởng cho quốc vương, vương phi, đại thần tại địa phương. Cuối cùng, ông mới tiếp nhận những gì cống nạp của quốc vương hoặc tù trưởng đó. Trịnh Hoà cũng tiến hành việc mậu dịch hàng hoá và thổ sản. Đoàn thuyền của Trịnh Hoà mặc dù có số lượng thành viên rất đông, có quân tinh nhuệ, nhưng không bao giờ lấy sức mạnh của nước lớn để hiếp đáp hoặc cướp đoạt các nước ở hải ngoại”.

Cuốn sách trên ghi rõ trong quá trình bảy lần đi sứ Tây Dương, Trịnh Hoà chỉ sử dụng vũ lực có ba lần. Lần sử dụng dùng vũ lực thứ nhất là để bắt sống được tên hải tặc Trần Tổ Nghĩa tại Palembang, một cảng biển cổ thuộc Indonesia. Việc sử dụng vũ lực lần thứ hai là trong trường hợp bắt sống vị quốc vương của Tích Lan (Sri-lanka ngày nay) bởi vì quốc vương Vira Alakesvara có ý định cướp bóc đoàn thuyền của Trịnh Hoà. Việc sử dụng vũ lực lần thứ ba là tại nước Sumudra ( Indonesia) khi Tô Can Lạt, em trai của quốc vương nước này xua mấy vạn quân tấn côngđoàn thuyền.

Nhận định về bảy chuyến đi sứ của Trịnh Hoà, Cát Kiếm Hùng viết : “Trịnh Hoà bảy lần đi Tây Dương, trước sau như một vẫn thi hành chính sách ôn hoà đối với người nước ngoài, có mục đích tạo điều kiện cho việc tiếp xúc hoà bình và hữu hảo, tăng cường mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, Nam Á và châu Phi. Đoàn thuyền của Trịnh Hoà đến những quốc gia ở nước ngoài không hề có tham vọng gì, mà chỉ nhằm phát triển sứ mệnh hữu hảo với các nước đó, không bao giờ có hành động lấy việc nô dịch các dân tộc khác để xem đó là sự vinh quang của mình, tuyệt đối không ỷ mạnh hiếp yếu, không ỷ lớn hiếp nhỏ. Những nơi mà họ đến, bao giờ cũng đối đãi bình đẳng với mọi người, không hề xâm phạm quyền lợi của nhân dân ở nước đó dù là rất bé nhỏ. Trong quá trình mậu dịch, các thuyền viên bao giờ cũng thể hiện được thái độ nhập gia tuỳ tục, mua bán công bằng, chứ không bao giờ dựa vào vũ lực để mua bán theo kiểu ăp cướp”.

Các học giả nước ngoài viết về bảy chuyến đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà

Cùng với các nhà sử học Trung Quốc, các nhà khảo cứu về thám hiểm đại dương danh tiếng trên thế giới trong tập Bách Khoa Toàn Thư Anh Quốc cũng viết vể Trịnh Hoà như sau: “Đầu thế kỷ 15, Minh Thành Tổ phát động chính sách thổ địa và hải dương tích cực, cử Đô đốc Thái giám Trịnh Hòa phụ trách những cuộc hải trình qui mô bành trướng ngoại giao tại Đông Nam Á, Ấn Độ Dương, Vịnh Ba Tư, đến Đông châu Phi là địa điểm xa nhất”. [1]

Trong cuốn sách Tân lịch sử Trung Quốc, Giáo Sư John King Fairbank tại Đại Học Harvard đã vẽ bản đồ 7 cuộc hải trình của Trịnh Hòa, xuất phát từ Phúc Kiến, ghé qua Đồ Bàn hay Trà Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành, đến Java, Sumatra (Nam Dương), Colombo (Tích Lan), Calicut (Ấn Độ), Hormuz (Vịnh Ba Tư), Jiddah (Biển Hồng Hải) về phía Tây Bắc, rồi đến các hải cảng Magadishu và Malindi tại Đông châu Phi về phía cực Tây Ấn Độ Dương. [2]

Trong cuốn sách “Trung Hoa thao túng đại dương”, nhà văn Louise Levathes, và là học giả thỉnh giảng tại Đại Học Nam Kinh, trong bài viết đăng trên Nữu Ước Nhật báo viết rằng: “Trong thời gian từ 1405-1433, đoàn bảo thuyền do Đô đốc Thái giám Trịnh Hòa chỉ huy đã thực hiện bảy cuộc hành trình vượt qua các Biển Trung Hoa và Ấn Độ Dương, đến Đài Loan về phía Đông, rồi đến Vịnh Ba Tư và bờ biển Đông châu Phi về phía Tây”.

Kết quả chuyến đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà

Các chuyến đi sứ Tây Dương trong khoảng thời gian gần 30 năm của Trịnh Hoà đã thu được một số kết quả nhất định. Một là, nhà Minh đã thu được thắng lợi ngoại giao nhất định, khuyếch trương uy lực của người Trung Hoa trong khu vực, mời được các nước phái sứ thần đến Trung Quốc để triều cống. Sau chuyến đi của Trịnh Hoà, sứ thần của các nước Java, Malacca, Samudra, Quilon, Calicut, Cochin, Aru, Palang, Kelantan đã đến để triều kiến vương triều nhà Minh. Hai là, nhận được nhiều đồ triều cống như sư tử, báo, ngựa, hươu cao cổ, lạc đà và vô số vật lạ từ các nước lân bang. Tuy vậy, số cống vật này có giá trị rất nhỏ bé so với giá trị của những món quà mà Trịnh Hoà tặng các quốc vương và tù trưởng ở những nước mà Trịnh Hoà đến để “tuyên dương oai đức”, mua chuộc lòng người. Tại mỗi nước, Trịnh Hoà đều phát lịch nhà Minh, phân phát ấn tín và ban thưởng rất nhiều tiền bạc cho các thủ lĩnh địa phương, tốn kém rất nhiều. Ba là, sau chuyến đi Trịnh Hoà đã mở ra con đường hàng hải từ Trung Quốc đến Vịnh Ba Tư, Hồng Hải tới bờ biển phía Đông của châu Phi và nhiều con đường hàng hải phụ khác. Chuyến đi của Trịnh Hoà có thể nói là một cuộc thám hiểm có quy mô lớn nhất trên biển trong lịch sử thế giới trước khi có những phát hiện lớn về địa lý vào thế kỷ 15 ở châu Âu. Bốn là, chuyến đi của Trịnh Hoà cũng có ý nghĩa nhất định về thương mại. Tuy vậy, việc trao đổi hàng hoá trong chuyến đi chủ yếu là mua sắm những đồ vật quý hiếm không có ở Trung Quốc như trân châu, mã não, ngà voi, thuốc nhuộm, đồ gia vị, đặc sản và hàng hoá thủ công mỹ nghệ của Tây Dương cho hoàng đế và hoàng gia, không giúp ích gì đáng kể cho nền thương mại Trung Quốc thời bấy giờ. Năm là, nhờ bảy lần đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà, phong trào di dân ra hải ngoại làm ăn ngày càng phồn thịnh. Ngoài bán đảo Mã Lai, đảo Sumatra, Bornéo, Java, Philipin, quần đảo Moluques, người Trung Quốc còn di cư đến Xiêm La, Miến Điện và Việt Nam.

Tuy vậy, cái giá phải trả cho các chuyến đi của Trịnh Hoà cũng rất lớn. Theo sách Quảng Chí Dịch chép thì đầu đời nhà Minh phủ khố đầy ắp vàng bạc. Trong thời kỳ Trịnh Hoà đi Tây Dương trong phủ khố còn đến bảy triệu lạng bạc trắng, nhưng mười năm sau thì chỉ còn lại có hơn một triệu. Sáu triệu bạc trắng nói trên ngoài một số được dùng vào việc mậu dịch ở hải ngoại, còn phần lớn được dùng để ban thưởng và chi phí cho đoàn thuyền. Những chi phí lớn cho các chuyến đi sứ Tây Dương của Trịnh Hoà, cộng với những tổn thất nặng nề trong cuộc xâm lược Đại Việt, là một trong các nhân tố góp phần làm suy yếu nhà Minh bắt đầu từ đời Anh Tôn (1436). Chính vì lý do đó mà ngay sau khi Minh Thành Tổ và Trịnh Hoà chết không bao lâu thì đội thuyền của Trung Quốc cũng tuyệt tích trên Ấn Độ Dương và biển A Rập. Sự nghiệp hàng hải của Trung Quốc bị gián đoạn một cách đột ngột.

Kết luận:

Việc khảo cứu các sử, sách cổ và những công trình nghiên cứu thời bây giờ về bảy chuyến đi Tây Dương của Trịnh Hoà cho thấy rằng không có sử sách nào ghi chép đoàn thám hiểm của Trịnh Hòa đã ghé qua hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và có hành động xác lập chủ quyền của nhà nước Trung Hoa tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; càng không có chuyện Trịnh Hòa đã đánh chiếm Chiêm Thành cả trên đất liền và đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngoài biển Đông vào năm 1413. Vào thời kỳ đó, biển Đông mênh mông, với một dải đảo đá san hô dài “vạn dặm” khô cằn, không cây cối, không người ở, kéo dài từ vĩ tuyến 17 B xuống đến 60,2 B, gần xích đạo là nỗi kinh hoàng cho những người đi biển, làm biết bao tàu thuyền bị đắm tại khu vực này, quả thật không có gì hấp dẫn đối với đoàn sứ thuyền của Trịnh Hòa và cũng không có ai trên những dải đá hoang vu đó mà cần ra đó tuyên dương “oai đức Thiên triều”. Vì lý do an toàn hàng hải, chính Trịnh Hoà đã huấn thị cho đoàn sứ thuyền: “phải tránh xa các vùng đá ngầm và các đảo nguy hiểm tại Biển Nam Hoa”.

Như vậy, việc quả quyết lúc thì Trịnh Hoà đã ghé qua hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lúc thì Trịnh Hoà đánh chiếm Chiêm Thành và hai quần đảo này vào năm 1413 thực chất chỉ là chiến dịch tuyên truyền bịa đặt, bóp méo sự thật nhằm mục đích phục vụ cho ý đồ chính trị và tham vọng bành trướng của Trung Quốc hiện nay.

Thực ra, nếu chỉ từ một tấm bản đồ được vẽ vào năm 1763, nhưng được nói là vẽ lại tấm bản đồ năm 1418, và chưa biết thật giả ra sao mà truyền thông đại chúng Trung Quốc vừa qua đã có thể tuyên truyền rùm beng là trong thế kỷ 15 Trịnh Hòa đã đi xuyên qua 3 đại dương (Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương)và khám phá châu Mỹ năm 1421 thì việc họ biến các chuyến đi của Trịnh Hoà thành câu chuyện Trịnh Hoà đánh chiếm Chiêm Thành và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa năm 1413 cũng không có gì là lạ.

Nhưng việc quyết đoán hồ đồ hay khẩu thuyết vô bằng như thế không làm cho ai tin được. Trái lại, chỉ làm cho người ta thấy rõ hơn bản tính của hệ thống tuyên truyền của Bắc Kinh là hay xuyên tạc, bóp méo những sự thật không có lợi cho mình hoặc nếu cần thì biến không thành có, nguỵ tạo những chứng cứ để phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình.

——————————–

Chú thích

[1] Encyclopedia Britannica 1981, trang. 350.
[2] John King Fairbank, China, A New History, Map 18: The Voyages of Zheng He, Harvard University Press, 1991, trang. 133.

Theo PHẬT GIÁO BẠC LIÊU

Tags: , , ,