Ukraina có sai lầm khi từ bỏ kho vũ khí hạt nhân?

Có ý kiến cho rằng nếu Ukraina giữ lại kho vũ khí hạt nhân họ từng kế thừa từ Liên Xô thì Nga sẽ không dám tấn công Ukraina như vừa qua. Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản như vậy.

Ukraina có sai lầm khi từ bỏ kho vũ khí hạt nhân?

Tiêu hủy một tên lửa đạn đạo ở Ukraine năm 1997. Ảnh: AP.

Khi Nga mở “chiến dịch quân sự đặc biệt” tiến công Ukraina vào ngày 24/2/2022, một số nghị sĩ Ukraina bày tỏ hối tiếc về việc nước họ đã từ bỏ vũ khí hạt nhân có từ thời Liên Xô để đổi lấy các cam đoan an ninh từ Nga, Mỹ và Anh vào năm 1994.

Nghị sĩ Ukraina Alexey Goncharenko bình luận: “Ukraina là quốc gia duy nhất trong lịch sử nhân loại từ bỏ kho vũ khí hạt nhân – lớn thứ 3 thế giới vào năm 1994, với các bảo đảm của Mỹ, Anh và Nga. Ấy thế nhưng hiện nay chúng ta lại đang bị ném bom”.

Một câu hỏi được đặt ra là nếu Ukraina giữ lại kho vũ khí hạt nhân kế thừa từ Liên Xô thì liệu họ có tránh được cuộc tấn công quân sự của Nga nhờ vào sự răn đe từ kho vũ khí hạt nhân của mình?

Có nhiều bằng chứng cho thấy Ukraina thiếu khả năng sở hữu thực sự kho vũ khí ấy cũng như duy trì và sử dụng hiệu quả chúng trong dài hạn. Và do đó, nếu Ukraina có cố giữ vũ khí đó thì họ cũng ít khả năng tạo ra được sức răn đe hạt nhân hiệu quả.

Kho vũ khí hạt nhân của Ukraina từng đứng thứ 3 thế giới

Khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, tên lửa gắn đầu đạn hạt nhân của Liên Xô nằm rải rác trên một số nước cộng hòa tách ra từ Liên Xô, đó là Ukraina, Belarus, và Kazakhstan.

Vào thời điểm tách ra độc lập, Ukraina có tới 1/3 kho vũ khí hạt nhân của toàn Liên Xô, trong đó có khoảng 1.900 đầu đạn chiến lược cùng 176 tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) và 44 máy bay ném bom chiến lược. Đây cũng là kho vũ khí hạt nhân lớn thứ 3 thế giới vào thời điểm đó.

Belarus và Kazakhstan sau khi tách khỏi Liên Xô đã nhanh chóng trao lại các đầu đạn hạt nhân cho Nga vào tháng 4/1992. Trong khi đó, nhiều người Ukraina kêu gọi giữ lại số vũ khí này để phòng ngừa bị nước ngoài xâm lược trong tương lại.

Cơ quan Giảm mối đe dọa Quốc phòng (DTRA) nhận xét rằng khi đó có sự thiếu rõ ràng về ai là chủ nhân thực sự của các vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ Ukraina. Hầu hết các quan chức trong chính phủ Ukraina mới thành lập đều cho rằng Ukraina là “chủ nhân” đích thực, trong khi Nga tự nhận mình là người kế thừa vũ khí hạt nhân của Liên Xô.

Sau các đàm phán mở rộng, Ukraina đồng ý hoàn lại số vũ khí này cho Nga để đổi lại các cam đoan an ninh từ phía Nga, Mỹ và Anh trong khuôn khổ Bản ghi nhớ Budapest năm 1994. Các đầu đạn đã được vận chuyển bằng tàu biển tới Nga, còn tên lửa thì bị phá hủy với sự trợ giúp kỹ thuật của Mỹ.

Chiểu theo Bản ghi nhớ này (được ký vào ngày 5/12/1994), Ukraina đổi vũ khí hạt nhân lấy các cam kết của 3 cường quốc nói trên rằng họ “sẽ tôn trọng độc lập, chủ quyền và đường biên giới hiện tại của Ukraina” và không “đe dọa sử dụng vũ lực” với Ukraina. Năm đó, Ukraina, Belarus và Kazakhstan cũng tham gia Hiệp ước về Không phổ biến Vũ khí hạt nhân (NPT) với tư cách là các quốc gia không có vũ khí hạt nhân.

Tuy nhiên thực tế hiện nay có nhiều thay đổi. Năm 2014, Nga sáp nhập bán đảo Krym mà Ukraina quản lý trước đó. Vào ngày 21/2/2022, Nga công nhận độc lập của các nước cộng hòa nhân dân tự xưng ở Donetsk và Lugansk (nằm ở miền Đông Ukraina). Và vào ngày 24/2, Nga phát động chiến dịch quân sự tấn công Ukraina từ nhiều hướng.

Ukraina có làm được gì khác?

Trong bối cảnh xung đột Ukraina-Nga, bên trong Ukraina xuất hiên tâm lý cho rằng việc từ bỏ vũ khí hạt nhân trước đây là một sai lầm.

Tuy nhiên, Bản ghi nhớ Budapest không có tính ràng buộc pháp lý, chỉ dừng lại ở “cam đoan an ninh” chứ không phải là “bảo đảm an ninh” với cam kết sử dụng vũ lực để bảo vệ đất nước bị xâm lược.

Ngoài ra, tuy Ukraina ở vị trí thuận lợi trong đàm phán khi sở hữu kho vũ khí hạt nhân lớn thứ 3 thế giới nhưng về mặt kỹ thuật, họ không hoàn toàn làm chủ kho vũ khí ấy.

Thứ nhất, năng lực kiểm soát hoạt động của kho vũ khí hạt nhân trên đất Ukraina vẫn nằm ở Nga. Moskva nắm các mã cần thiết để vận hành số vũ khí đó qua thiết bị PAL (“kết nối hành động cho phép”) và hệ thống chỉ huy, kiểm soát của Nga.

Nghiên cứu gần đây cho thấy Ukraina có thể đã tìm ra cách để thiết lập sự kiểm soát riêng của họ đối với số vũ khí này nhưng nhiều người nhất trí rằng điều này không khả thi.

Một giải pháp khác là tháo rời đầu đạn hạt nhân và lấy vật liệu có thể tách rời để chế ra vũ khí mới. Nhưng cách làm này lại quá tốn kém.

Thứ hai, giả sử Ukraina xoay sở để kiểm soát được số vũ khí hạt nhân đó, họ lại không sở hữu kiến thức kỹ thuật cần thiết hoặc cơ sở kỹ thuật chuyên dụng để duy trì, bảo dưỡng các đầu đạn này. Mặc dù cũng có một số cơ sở chế tạo và bảo dưỡng tên lửa, Ukraina lại thiếu nền tảng vật liệu và công nghệ để lắp ráp và tháo rời các đầu đạn, chưa nói đến chuyện làm mới.

Ukraina tiếp nhận một số lực lượng quân sự từ Liên Xô. Nhưng lực lượng tên lửa chiến lược hình thành nên các đơn vị hạt nhân đóng trên đất Ukraina lại đến từ Nga. Và do vậy, lực lượng vũ trang mới thành lập ở Ukraina (sau khi Liên Xô tan rã) không có kinh nghiệm bảo dưỡng cả tên lửa đạn đạo lẫn đầu đạn hạt nhân.

Thứ ba, theo cựu quan chức quốc phòng cấp cao của Liên Xô Vitaly Katayev, các đầu đạn hạt nhân mà Ukraina kế thừa khi ấy đang ở trong tình trạng xuống cấp. Hầu hết cần được thay thế hoặc đến ngưỡng loại bỏ. Vị tướng này thừa nhận rằng tuổi thọ cho phép của các đầu đạn Liên Xô là 12 năm. Còn các đầu đạn ở Ukraina khi ấy đã được 8 năm tuổi. Trong khi đó, Ukraina đang chịu gánh nặng tài chính phải cắt giảm và tái cấu trúc đội ngũ nhân lực, thiết bị và cơ sở hạ tầng quân sự trên lãnh thổ của mình. Chính phủ Ukraina thời đó không có tiền để duy trì một chương trình hạt nhân độc lập hoặc duy trì lực lượng tên lửa chiến lược cần thiết để bảo dưỡng và sản xuất các đầu đạn hạt nhân.

Như vậy, dù sở hữu một trong các kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới vào thời điểm vừa tách ra khỏi Liên Xô, Ukraina lại không có khả năng duy trì kho vũ khí đó hoặc sản xuất các thành phần mới của đầu đạn hạt nhân.

Theo VOV

Tags: , ,