⠀
Trường Sa 1988 – trận hải chiến mà cả Mỹ lẫn Liên Xô đều ‘không để ý’
Hải chiến Trường Sa năm 1988 không phải là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại khi Việt Nam phải đối đầu Trung Quốc, nước thực thi chính sách bành trướng “xuống phía Nam”.
Tàu HQ 505 trên đảo ngầm Colin, tháng 4/1988.
Sau sự thất bại của Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Trung Quốc đã chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa, mặc dù theo Công ước Geneva, văn kiện mang chữ ký của Trung Quốc, quần đảo thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa với thủ đô đặt tại Sài Gòn. Sau khi ký kết hiệp định Paris — chấm dứt chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam —, Trung Quốc rất nhanh chóng tổ chức chiến dịch chiếm các đảo phía Tây thuộc quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, chiếm đóng toàn bộ quần đảo này không chờ đợi sự tái thống nhất Việt Nam. Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự quyết liệt trong 5 ngày. Thậm chí đã sẵn sàng đưa các tàu chiến lên bờ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Họ đã hy vọng vào sự yểm trợ của Hạm đội 7 Mỹ. Một sĩ quan của quân đôi Sài Gòn tên là Lê Vinh hồi tưởng lại: “những người bạn Mỹ đã quay lưng lại với chúng tôi, thậm chí không giúp giải cứu những người lính đã bị Trung Quốc bắt làm tù binh”. Cũng cần nói thêm rằng, không có nước nào trên thế giới công nhận Hoàng Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.
Năm 1975, trong khi tiếp tục thực thi chính sách bành trướng “xuống phía Nam”, Trung Quốc đã hậu thuẫn cho chế độ diệt chủng Pol Pot ở Campuchia, trên thực tế biến đất nước này thành lãnh thổ bảo hộ của họ. Và trong năm 1979, Bắc Kinh đã áp dụng nỗ lực không thành công -khai chiến để trừng phạt Việt Nam vì lật đổ chính quyền Khơ me Đỏ. Cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam đã kéo dài 30 ngày.
Vào tháng 3/1988 đã đến lượt quần đảo Trường Sa. Tổng diện tích hơn một trăm đảo lớn nhỏ và các rạn san hô của quần đảo này là ít hơn 5 cây số vuông. Tuy nhiên, vùng lãnh hải của quần đảo này ở Biển Đông là rộng khoảng 400.000 km2 và có nhiều dự trữ dầu mỏ.
Các nhà sử học Trung Quốc nói rằng, ngay trước công nguyên các nhà địa lý của nhà Hán đã biết về quần đảoTrường Sa. Tuy nhiên, trên nhiều bản đồ thời nhà Minh thấy rõ đảo Hải Nam là cực nam biên giới phía nam của Trung Quốc, không có Hoàng Sa và Trường Sa. Trên các bản đồ thời nhà Thanh từ năm 1848 đến năm 1905 cũng không có hai quần đảo này. Trong năm 1895 triều đình Trung Hoa đã gửi văn bản chính thức cho Chính phủ Anh trong đó viết rõ rằng quần đảo Trường Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Hơn nữa, vào năm 1906, Bắc Kinh đã phát hành sách giáo khoa địa lý, trong đó lãnh thổ của đất nước không bao gồm quần đảo Trường Sa. Nhưng, trong năm 1947, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã ký sắc lệnh, theo đó tất cả các hòn đảo ở vùng Biển Đông được đưa vào khu hành chính Hải Nam.
Dưới thời Liên bang Đông Dương, Pháp đã thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Trường Sa. Nguyên nhân kết nối quần đảo vào thành phần Liên Bang Đông Dương là các tài liệu ghi rõ rằng, ngay từ thế kỷ 17 những quần đảo này luôn luôn thuộc về Việt Nam.
Ngay vào nửa đầu thế kỷ 17, trên bản đồ “Tứ chí lộ đồ” do Đỗ Bá Công Đạo vẽ thì quần đảo Trường Sa — Hoàng Sa được gọi là vùng phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam. Vào năm 1816, vua Gia Long, vị vua đầu tiên của vương triều Nguyễn, đã tuyên bố chủ quyền quần đảo Hoàng sa và Trường sa. Một thế kỷ sau đó, đoàn thám hiểm khoa học của Pháp ghé thăm các hòn đảo này và rút ra kết luận rằng, về mặt địa lý các đảo này thuộc về Việt Nam. Năm 1930, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Pháp. Và sau khi kết thúc thời kỳ Pháp thuộc, các quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam.
Trong năm 1987, hải quân Trung Quốc bắt đầu tuần tra khu vực biển quần đảo, rồi vào tháng Ba năm 1988, trong vụ đụng độ chiếm đá Gạc Ma (Johnson South Reef) Trung Quốc đã bắn cháy ba tàu vận tải của Việt Nam. Về phía Việt Nam, theo những dữ liệu khác nhau, có từ 64 đến 100 người thiệt mạng, bao gồm nhóm học viên của Học viện Hải quân đang thực tập trong khu vực.
Nếu nói về quần đảo Trường Sa, thì theo một số dữ liệu đòi hỏi phải xác thực, Việt Nam đang kiểm soát khoảng 25 đảo, Philippines — 8 đảo, Malaysia — 3 đảo, Đài Loan — một hòn đảo lớn nhất. Trung Quốc đang kiểm soát 9 đảo và đang ồ ạt xây dựng các công trình quân sự trên các hòn đảo nhân tạo. Bắc Kinh thông báo đặt Hoàng Sa và Trường Sa vào Đường Chín Đoạn mà người Việt Nam hay gọi là Đường Lưỡi Bò. Trung Quốc dựa vào “quyền lịch sử” tuyên bố chủ quyền đối với vùng lãnh hải Biển Đông, có tham vọng nuốt trọn diện tích trên 2 triệu km vuông, tuyên bố chủ quyền tới 80% Biển Đông.
Nhà phân tích chính trị Nga Vladimir Kolotov nhận xét: “Nhiều chuyên gia cho rằng, diễn biến sự kiện nguy hiểm nhất đối với Việt Nam là việc Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể đạt thỏa thuận lợi ích trên lưng Việt Nam và “đâm sau lưng” Việt Nam. Ví dụ như đã từng xảy ra với Hoàng Sa. Sau chuyến thăm Bắc Kinh vào năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon từ bỏ chính sách kiềm chế cả Liên Xô và Trung Quốc, và bắt đầu cùng với Trung Quốc thực thi chính sách kiềm chế Liên Xô. Washington trả ơn Bắc Kinh về việc đứng cùng phe với Hoa Kỳ bằng cách im lặng về việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa”.
Trong năm 1988 cả Mỹ lẫn Liên Xô đều “không để ý” đến trận hải chiến Trường Sa, — Giáo sư Kolotov ghi chú. — Hoa Kỳ có lợi ở việc duy trì sự căng thẳng giữa hai nước xã hội chủ nghĩa lớn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương — Trung Quốc và Việt Nam. Nếu nói về Liên Xô, thì vào thời điểm đó đất nước này đã đặt một chân vào bờ vực tan rã và đang trong tình hình quốc tế rất phức tạp.
Chín năm trước đó, trong thời gian cuộc chiến biên giới của Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược, Liên Xô đã hỗ trợ rất tích cực cho Việt Nam. Nhưng, vào cuối thập niên 1980, ban lãnh đạo của đất nước đi theo chính sách “con đà điểu”, rút khỏi công việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong cả nước và đối ngoại.
Theo SPUTNIK
Tags: Mỹ, Liên Xô, Quần đảo Trường Sa, Hải chiến Trường Sa