⠀
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã sa vào vũng lầy mê tín dị đoan như thế nào?
Dù là người theo “Tây học”, nhưng do ảnh hưởng của vợ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rất coi trọng chiêm tinh, bói toán. Ông quan niệm “chân mạng đế vương” của mình do những thế lực “siêu hình” nào đó nâng đỡ, vì vậy mà ông hết lòng phụng sự những điều phù phiếm.
“Tứ Tý” và “chân mạng đế vương”
Bà Nguyễn Thị Mai Anh – phu nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – là con gái thứ 7 trong một gia đình lương y truyền thống ở Mỹ Tho (Tiền Giang). Là người theo đạo Công giáo toàn tòng nhưng bà Mai Anh chịu ảnh hưởng khá lớn về nề nếp, gia phong của một gia đình phong kiến, chịu ảnh hưởng của Khổng giáo.
Lớn lên, cô Bảy Mai Anh được giới thiệu vào làm “trình dược viên” tại Viện bào chế Roussell Việt Nam ở Sài Gòn. Cậu ruột của bà Mai Anh là Đặng Văn Quang – là bạn học cùng khóa võ bị Đà Lạt với Nguyễn Văn Thiệu, qua cái gạch nối ấy mà nên cuộc hôn nhân giữa thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu với cô gái Mỹ Tho vào năm 1951.
Người ta đồn rằng chính bà Mai Anh đã “đạo diễn” cho chồng câu chuyện “tứ Tý” khá bí hiểm và nặng dấu ấn tâm linh khi chồng ngấp nghé vào chính trường. Số là, khi bước chân vào chính trường, Thiệu (qua các chiếc loa của mình) cho biết ông sinh vào giờ Tý ngày 24/12/1924 (giờ Tý, ngày Tý, tháng Tý, năm Tý – tức “tứ Tý”). Mà người có “tứ Tý”, theo chiêm tinh, bói toán thì có hậu vận, thiên cơ, có “chân mạng đế vương”.
Mãi đến khi Nguyễn Văn Thiệu qua đời ở tuổi 78 tại Pháp, trong cáo phó và văn bia mới khắc ghi: Sinh ngày 5/4/1923 âm lịch, tuổi Quý Hợi. Cuối cùng, người Sài Gòn một thời mới té ngửa ra mình đã bị lừa.
Trở lại câu chuyện “tứ Tý”, tử vi chỉ rõ: Người có lá số “tứ tý” này “tuổi thơ nghèo khổ, ít học, nhưng khôn ngoan và ương ngạnh. Tuy háo sắc nhưng rất kín đáo để che giấu tình cảm. Là người có vóc dáng thanh tú, điềm đạm, thông minh, mưu trí và nhất là biết chụp thời cơ. Có khiếu về văn nghệ và ngoại ngữ, lấy vợ sớm và phải có người mai mối”.
Về tính cách, “đây là người ôn hòa, mềm mỏng, đa nghi, có nhiều mưu trí. Suốt cả cuộc đời đều được yên thân và hưởng giàu có sau 33 tuổi. Khuyết điểm của người tuổi này là: Chủ quan, liều lĩnh, thô bạo, nóng nảy…”.
Theo quẻ thì toàn bộ tính cách, biểu hiện trên là ứng 100% vào Thiệu về mọi phương diện. Dù nói công khai, lộ liễu hay nói úp mở đến đâu thì vào giữa thập niên 1960 mọi người vẫn ngầm hiểu vận mệnh quốc gia đang thuộc về người chèo lái Nguyễn Văn Thiệu có chân mạng đế vương.
Bịp bợm hơn, năm Nhâm Tý 1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu còn cho phép ba thầy Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn -“những quỉ cốc cao nhân” trong nghề chiêm tinh, tử vi và bói toán nổi tiếng miền Nam mà ông ta rất tin tưởng – lên đài truyền hình nói trước dân chúng về vận mạng quốc gia.
Lá tử vi quý số “tứ Tý” của Nguyễn Văn Thiệu được ba thầy tranh nhau nhắc đến, gắn “chân mạng đế vương” của người đứng đầu thể chế với “một nền hòa bình và vĩnh cửu, cho dân chúng miền Nam, đang đến rất gần”.
Dùng “rùa lớn” yểm đuôi rồng quẫy
Nhớ hồi khởi đầu sự nghiệp của Thiệu, bà Mai Anh đã cho mời Quỷ cốc tiên sinh Huỳnh Liên đến gặp Thiệu. Thầy đã phán chắc nịch: “Ông đây cầm tinh Giáp Tý, năm Quý Mão (1963) tất gặp chông gai. Ông phải đích thân đứng ra đẩy bật tảng đá chắn đường mình đi, nếu không thì mạng vận của ông sẽ bị tảng đá này đè nát”.
Vợ chồng Thiệu tin sái cổ. Quỷ cốc tiên sinh còn phán thêm: “Số phần đã vạch, ông chớ có nhị tâm mà rước họa vào thân, chết không toàn mạng”.
Nguyễn Văn Thiệu líu ríu nghe theo và thề độc sẽ theo phe đảo chính, chính thức ký tên vào danh sách những kẻ sẽ nhúng tay tắm máu anh em Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11/1963. Lúc ấy Thiệu đang là tư lệnh Sư đoàn 5 cơ động đóng quân tại Biên Hòa, liền trở mặt với Diệm – Nhu kéo về bao vây, tấn công Dinh Gia Long. Về sau, ai hỏi đến, Thiệu lấp liếm cho rằng, chỉ nổ súng khi biết chắc Diệm và ông Nhu đã thoát ra ngoài.
Quẻ bói của Quỷ cốc tiên sinh giúp Thiệu lập công, “đẩy bật tảng đá chắn đường mình đi” đã linh nghiệm, tạo đà cho Thiệu gác việc binh đạo trở thành một chính trị gia. Từ đại tá bay vù lên thiếu tướng nhờ lập công lớn, tham gia đảo chánh, chính thức giúp Thiệu đặt những bước chân đầu tiên lên nấc thang quyền lực trong bộ máy chính quyền Sài Gòn đang cảnh rối ren, hỗn loạn “quần ngư tranh thực”.
Mê tín đến mức cuồng tín, nhưng vốn bản tính đa nghi bẩm sinh, nên vợ chồng Thiệu luôn trong tâm trạng bất an, chưa hết lo. Năm 1967, vợ chồng Thiệu cho mời một thầy địa lý người Hoa từ Hồng Kông vào dinh Độc Lập yểm bùa.
Thầy địa lý phán: “Dinh được xây trên long mạch, trấn ngay vị trí đầu rồng. Đuôi rồng nằm cách đó non 1km, rơi vào vị trí Công trường Chiến sĩ. Cần phải dùng một con rùa lớn yểm đuôi rồng lại, sự nghiệp của tổng thống mới mong bền vững”.
Vợ chồng Nguyễn Văn Thiệu tin theo, cho xây hồ nước tại công trường thành hình bát giác, từ trên cao nhìn xuống giống hệt những ô bát giác trên mai rùa. Vị trí của hồ được đặt ngay chính vị trí cửa Khảm Khuyết của thành Gia Định xưa (còn gọi là thành Bát Quái hay thành Qui). Giữa trung tâm hồ nước là một đài tưởng niệm, trên có đúc một con rùa lớn bằng kim loại đội bia ở trên lưng và một cột cao có hình cánh hoa xòe ở phía trên, xem như một chiếc đinh đóng xuống giữa hồ để ghim đuôi rồng lại. Năm 1972, Công trường Chiến sĩ được đổi tên thành Công trường Quốc tế, dân Sài Gòn vẫn quen gọi đó là hồ Con Rùa.
Trấn “long mạch” núi Mặt Quỷ, hòn Đá Dao…
Ở vùng Ninh Hải quê của Nguyễn Văn Thiệu có ngọn núi tên Đá Chồng. Trên núi có 3 tảng đá lớn chồng lên nhau có hình thù rất dữ tợn đặt tên là núi Mặt Quỷ. Cách núi Mặt Quỷ khoảng 1 cây số, ở chóp bắc núi Đá Chồng có một tảng đá lớn hình tam giác nhọn, màu đất sét, chiều ngang cỡ 6m, cao 3m nhìn giông giống như cái dao, nên được gọi tên là hòn Đá Dao.
Các thầy chiêm tinh phán rằng hòn Đá Dao là “yểm mệnh” của Thiệu. Sở dĩ Thiệu thăng quan, tiến chức, phát quang lộ mặc dù nhà gần chân núi Mặt Quỷ, là nhờ hòn Đá Dao. Tin lời các quân sư “chiêm tinh gia” nên nhân chuyến hồi hương vinh quy bái tổ, vợ chồng Thiệu mang theo các sư phụ cao nhân về để trấn, yểm giữ long mạch núi Đá Chồng nhằm bảo vệ linh khí cho Thiệu về sau.
Để “yểm” long mạch ngay phía trước mặt hai tảng Đá Dao và Mặt Quỷ, Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho tỉnh trưởng tỉnh Ninh Thuận điều một trung đội công binh gấp rút xây lại Văn Thánh miếu thành 3 ngôi nhà lớn tạo hình chữ Công, án chóp phía bắc núi Đá Chồng, sau đó làm gấp một con đường trải nhựa chạy thành hình vòng cung từ dưới tỉnh lộ lên đến Văn Thánh miếu. Công trình hoàn tất, một trung đội biệt động quân đã được điều về để ngày đêm bảo vệ.
Âm dương bài bố đầy đủ, Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh yên tâm, ngủ ngon và tin tưởng đến mức gửi trọn tiền đồ quốc gia cho những lời phán truyền sấp ngửa. Vì vậy mà đầu xuân 1972, Thiệu lệnh cho 3 thầy chiêm tinh Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn lên Đài truyền hình Sài Gòn rêu rao cái gọi là “vận mạng quốc gia” và khéo léo đề cập đến đương kim tổng thống đang mang mệnh trời.
Đầu năm 1975, Quân Giải phóng đánh chiếm tỉnh Phước Long. Trên mặt báo ở Sài Gòn vẫn còn nhan nhản lời những kẻ xu nịnh, a tòng ca tụng “quý số” và tài năng của ông Thiệu đại loại như: “Là người lãnh tụ phải biết trị quốc. Cụ Ngô Đình Diệm cầm quyền 9 năm bị 2 lần đảo chánh, vậy không biết trị quốc và quá tin người nên chết thảm.
Đại tướng Dương Văn Minh cầm quyền 3 tháng bị 1 lần đảo chánh, vì không biết trị quốc nên thân bại danh liệt. Nguyễn Khánh cầm quyền 13 tháng, Phan Huy Quát 5 tháng, Nguyễn Cao Kỳ 2 năm, tất cả đều bị lật đổ, vậy không biết trị quốc nên sự nghiệp tiêu tùng. Riêng ông Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền 10 năm không một lần đảo chánh, vậy là người biết trị quốc – xứng danh là lãnh tụ”. Ca tụng làm vậy, nhưng việc đến tất sẽ đến. Cuộc tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc thắng lợi vang dội từ các chiến trường.
Trước ngày Phan Rang giải phóng (16/4), vào ngày 13/4/1975 trung đội lính bảo an bảo vệ khu vực mồ mả, chùa miếu ở núi Đá Chồng quê hương của Thiệu đã bắn chết người cai quản Văn Thánh miếu, rồi xô vào đập nát các bệ thờ, tượng Phật, cạy cả mái ngói để “tìm vàng ông Thiệu giấu”.
Ngày 21/4/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã phải ngậm ngùi lên đài truyền hình đọc lời từ chức, thú nhận sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn và chính bản thân ông ta, để rồi sau đó, tối 25/4/1975 vợ chồng ông cùng với Trần Thiện Khiêm chạy sang Đài Loan bỏ lại “phủ Đầu Rồng” mà vợ chồng ông đã nhờ bao chiêm tinh gia chống đỡ mà vẫn không đứng vững nổi!
Theo LAO ĐỘNG ONLINE