⠀
Tổng quan về vấn đề biển đảo giữa Việt Nam và Campuchia
Tại sao ông Hun Sen lại nói: “Ở thời điểm đó, họ đã ‘bỏ rơi’ đảo Koh Tral và Kampuchea Krom… cho Việt Nam. Tôi không thể đòi lại được”?
Bài viết được tổng hợp từ chuỗi bài ba kỳ của TS Trần Công Trục – nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ – trên báo điện tử Giáo dục Việt Nam.
I. Vấn đề Phú Quốc và Nam Bộ
Ngày 24/7/2015 trong phiên họp Nội các Campuchia, Thủ tướng nước này Hun Sen tuyên bố rằng: “Ở thời điểm đó, họ đã “bỏ rơi” đảo Koh Tral (tức đảo Phú Quốc của Việt Nam) và Kampuchea Krom (tức người Khmer ở Nam Bộ, Việt Nam)…cho Việt Nam. Tôi không thể đòi lại được”.
Để tìm hiểu tại sao ông Hun Sen lại có câu nói đầy ẩn ý này, tôi xin tóm lược về vị trí địa lý cũng như thực trạng lịch sử và pháp lý các hải đảo trong vịnh Thái Lan và quá trình xác lập chủ quyền theo đúng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ mà Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ đã thực hiện để dư luận có thể thấy rõ bản chất của vấn đề ở đây là gì.
Vị trí địa lý
Vịnh Thái Lan là một biển nửa kín, diện tích khoảng 300.000 km2; giới hạn bởi bờ biển của nước là Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Campuchia. Vịnh thông ra Biển Đông bằng một cửa duy nhất ở phía Nam được giới hạn bởi mũi Cà Mau (Việt Nam) và mũi Trenggranu (Malaysia) cách nhau chừng 400km. Trong vịnh Thái Lan có khoảng 200 đảo, chủ yếu nằm tập trung ở phía Đông vịnh, gần bờ biển.
Riêng trong vùng biển giữa Việt Nam và Campuchia có trên 100 đảo, như Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu, đảo Vai, quần đảo Hải Tặc, đảo Phú Dự, Tiên Mới…Phần lớn các đảo đều có diện tích nhỏ, trừ đảo Phú Quốc có diện tích khoảng 600 km2, đảo Thổ Chu 10km2, Phú Dự 25km2, Hòn Dừa 6km2,các đảo còn lại có diện tích từ vài trăm mét vuông đến 1-2 km2.
Dân cư sống tập trung tại các đảo có nước ngọt, chủ yếu làm nghề chài lưới, trên đảo Phú Quốc cón có thêm nghề chăn nuôi, trồng cao su, hồ tiêu…Ở các đảo này có đời sống kinh tế riêng, có quá trình phát triển kinh tế, xã hội từ hàng trăm năm nay.
Đảo Phú Quốc nằm cách bờ biển tỉnh Kampot, Campuchia khoảng 14 hải lý, cách bờ biển tỉnh Kiên Giang, Việt Nam, khoảng 25 hải lý. Đảo Phú Quốc có đất đai phì nhiêu thuân lợi cho trồng trọt; có rừng bao phủ hầu hết diện tích, với nhiều loài động thực vật quý hiếm. Bờ biển đảo có những cảnh quan kỳ thú và có những bãi tắm hấp dẫn đối với du khách gần xa…
Phía Nam Phú Quốc là quần đảo An Thới có khoảng trên dưới 20 đảo nhỏ, trên các đảo này có nhiều núi, ngọn cao nhất đến khoảng 641 m.
Ở ven bờ có Hòn Tai, cách bờ biển Campuchia (Kép) 3 km, rộng 2 km2, có nhiều cây cối che phủ; Hòn Tre Nam, Hòn Kiến Vàng, Đảo Phú Dự….Đảo Phú Dự cách bờ biển tỉnh Kampot, Campuchia 0,5 hải lý, diện tích 25 km2, nơi cao nhất là 175 m, có nhiều tài nguyên thiên nhiên, phía tây đảo có đồng bằng khá phì nhiêu, phía Đông Băc có sông nước ngọt….
Ở ngoài khơi có quần đảo Thổ Chu và Poulo Wai. Quần đảo Thổ Chu gồm 8 đảo, quần đảo này nằm xa nhất trong vịnh, cách đảo Phú Quốc chừng 55 hải lý, gần đường hàng hải lại có diện tích từ 10 m2 đến 1 km2. Dân cư sinh sống chủ yếu ở đảo Thổ Chu làm nghề đánh cá và khai thác rừng. Đảo Poulo Wai cách mũi Tây Bắc Phú Quốc 59 hải lý, gồm hai đảo có diện tích tương đương, cách quần đảo Thổ Chu 45 hải lý.
Thực trạng lịch sử và pháp lý giai đoạn trước thế kỷ XVIII
Từ cuối thế kỷ thứ XVII trở về trước, theo sử sách ghi chép thì vùng Hà Tiên là một nơi ít người sinh sống nằm dọc theo vịnh Thái Lan, đường thông ra biển khơi có nhiều đảo nằm án ngữ và đây chính là hang ổ của bọn cướp biển hoành hành.
Vào đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu, xuất thân từ một gia đình Trung Quốc quí tộc có quyền thế ở Long Châu thuộc tỉnh Quảng Đông, do đối lập với nhà Thanh, phải chạy trốn, lánh nạn sang vùng đất hoang vu này. Lúc đầu, Mạc Cửu xin thần phục Campuchia và được vương triều Udong phong cho tước vị quan trọng trong vương triều.
Nhưng nhận thấy trong vương triều Campuchia có sự kèn cựa, ghen tỵ với vị trí của ông, nên Mạc Cửu đã chọn lập nghiệp tại một nơi sau này có thể cho ông quyền độc lập. Đó là Hà Tiên, một vùng đất giàu tài nguyên, thích hợp cho khai phá, nằm giữa Lục Chân Lạp với Thủy Chân Lạp, điểm giao thoa của của các nguồn lực tiềm năng kinh tế và chính trị.
Mạc Cửu được cử làm quan cai trị các khu vực lãnh thổ dọc theo vịnh Xiêm và bắt đầu khai hoang và phát triển công việc cai trị, mậu dịch trong khu vực đất đai của mình. Người Xiêm (Thái Lan) do ghen tỵ trước sự trù phú nhanh chóng đó, đưa quân sang xâm lược. Mạc Cửu và thuộc hạ của ông bị bắt làm tù binh.
Trước sự bất lực của nhà cầm quyền Campuchia trong việc bảo vệ mình, sau khi thoát khỏi tù đầy, Mạc Cửu xin tự đặt mình dưới quyền bảo hộ của Việt Nam vào năm 1708, lúc này do các Chúa Nguyễn nắm quyền bính. Vào thời điểm này lãnh thổ Hà Tiên gồm các vùng Long Cai, Cần Vọt, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau và đảo Phú Quốc.
Vào năm 1735 sau khi ông mất, Chúa Nguyễn cử Mạc Thiên Tứ là con ông giữ chức quan cai trị. Mac Thiên Tứ đã đánh bại và giết Hoắc Nhiêu, kẻ cầm đầu giặc cướp, và chiếm lại tất cả các đảo kể cả đảo Kokong vào năm 1767. Các quan lại dân sự và quân sự Việt Nam được cử đến giúp đỡ ông hoàn thành nhiệm vụ.
Từ tình hình nói trên cho thấy: Với những biến cố có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ Nam Bộ thông qua hành vi xin thần phục, từ bỏ và tiếp nhận giữa Mạc Cửu và Vương triều Campuchia, rồi giữa Mạc Cửu và các chúa Nguyễn Việt Nam đã chứng minh rằng bắt đầu từ năm 1708, vùng lãnh thổ này đã được đặt dưới sự cai quản của Nhà nước Việt Nam, không vấp phải sự phản kháng nào từ phía vương triều Campuchia.
Quá trình sáp nhập Hà Tiên và các đảo ngoài khơi gắn bó với vùng đất Hà Tiên vào An Nam là lẽ đương nhiên khi mà vùng đất và các đảo này liên tục phải chống chọi với các cuộc cướp phá của cướp biển từ vịnh Thái Lan, với sự hỗ trợ bằng các cuộc viễn chinh của các tướng lĩnh do Chúa Nguyễn cử đến.
Từ đó, việc sáp nhập Hà Tiên và các đảo phụ thuộc Hà Tiên về với An Nam trở thành yêu cầu cần thiết và hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ đương thời.
Giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX
Năm 1825, huyện Hà Tiên sáp nhập vào tỉnh An Biên và đến năm 1832, Hà Tiên được nâng lên thành đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Năm 1858, lấy lý do vua Tự Đức, Hoàng đế Việt Nam (1840-1885) ngược đãi các đoàn truyền đạo Cơ đốc, quân đội Pháp đánh chiếm Việt Nam. Việt Nam thua trận, phải ký Hiệp ước 1874 nhường cho Pháp 6 tỉnh ở Nam Kỳ, trong đó có tỉnh Hà Tiên, kể cả các đảo thuộc tỉnh này.
Thực dân Pháp thiết lập chính quyền thuộc địa ở Nam Kỳ và chính quyền bảo hộ ở Campuchia, trong một thực trạng về phạm vi lãnh thổ là: Tất cả các đảo trên vùng biển giữa Nam Kỳ và Campuchia đều thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Trong bản báo cáo tháng 1-1869, viên thanh tra Pháp Chessez đã viết: “Ngay cả đảo Phú Dự cách bờ biển Campuchia 0,5 hải lý và đảo Tiên Mới cách đảo Phú Dự 1 hải lý cũng đều thuộc một làng Việt Nam”. Vì vậy, sau một thời gian khảo sát, ngày 25-5-1874 Thống đốc Nam Kỳ đã ký Nghị định thành lập một quận biển trực thuộc chính quyền Nam Kỳ bao gồm các đảo thuộc trấn Hà Tiên.
Ngày 11-8-1863, Campuchia cũng ký một hiệp ước với Pháp, theo đó, Pháp bảo đảm việc bảo hộ bằng quân sự nước Campuchia chống mọi cuộc tấn công từ bên ngoài. Một viên Khâm sứ được bổ nhiệm bên cạnh vua Campuchia để theo dõi việc thi hành Hiệp ước. Về phía mình, vua Campuchia bị ngăn cấm không được có bất kỳ quan hệ nào với các cường quốc bên ngoài nếu không có sự thoả thuận trước với nước Pháp.
Sau đó để nhiệm vụ tiến hành thuận lợi nhà cầm quyền Pháp quyết định hoạch định rõ nước Campuchia và lập một Uỷ ban Pháp – Khmer hỗn hợp có nhiệm vụ nghiên cứu vạch đường biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia và trình bày các kiến nghị của Uỷ ban lên các cấp cao nhất. Việc vạch đường biên giới sau đó được ấn định “dứt khoát” tại Công ước 15-7-1873 giữa Vua Norodom và Chuẩn đô đốc Cornulier Lucimière nhân danh Nam Kỳ.
Nhưng Công ước này không đề cập đến việc quy thuộc các đảo. Cả các Uỷ ban phân định ranh giới được thành lập vào năm 1910 và năm 1935 cũng không đả động gì tới vấn đề đảo, và đương nhiên cũng không nói gì tới đường biên giới trên biển giữa hai nước. Nhưng vấn đề các đảo đã được giải quyết dứt khoát kể từ Hiệp định ngày 15-3-1874.
Ngày 25-5-1874, hai tháng sau khi có Hiệp ước, Chuẩn đô đốc, quyền Thống đốc và Tổng tư lệnh Jules François Émile Krantz, công bố Nghị định N°124 tách đảo Phú Quốc và các đảo lân cận khác ra khỏi hạt Hà Tiên để lập thành một quận riêng biệt.
Điều 1 của Nghị định này và bản đồ mô tả nội dung của Điều 1 Hiệp định 15-3-1874, như sau:
Đảo Phú Quốc và tất cả các đảo nằm giữa kinh tuyến 100° Đông và 102° Đông và giữa vĩ tuyến 9° Bắc và 11°30’ Bắc (kể cả quần đảo Nam Du) được tách ra khỏi hạt Hà Tiên và tạo thành một quận riêng biệt, được cai trị như mọi hạt tham biện khác của Nam Kỳ.
Đây là lần đầu tiên Nghị định nói trên nói rõ tính chất của các đảo trước đây đã được An Nam nhượng cho nước Pháp theo Hiệp ước Hoà bình ký kết giữa hai nước ngày 15-3-1874. Thực vậy, điều này cho thấy một sự liên tục trong việc cai trị các đảo tiếp nối nhau giữa Pháp và Vương triều An Nam.
Sau đó, một Nghị định thứ 2 ngày 16-6-1875, lại sáp nhập vào quận Hà Tiên, hạt tham biện Phú Quốc, do Charles-Marie Duperré, Chuẩn đô đốc, Thống đốc và Tổng Tư lệnh ký tên.
Như vậy, và kể từ thời điểm nói trên các ranh giới của lãnh thổ Phú Quốc đã được xác định rõ, do đó chúng ta có thể xác định dễ dàng và với tất cả sự chính xác cần thiết danh mục các đảo đã bị Pháp thôn tính khi họ đóng vùng Hạ Nam Kỳ để thi hành Hiệp ước 1874.
Trong khi đó, phía Campuchia không có yêu cầu nào đối với bất kỳ đảo nào và chủ quyền của các đảo đã không được nêu ra khi ký Hiệp ước1907 giữa Pháp và Xiêm (Thái Lan), theo đó đại diện nước Pháp với tư cách là Toàn quyền Đông Dương chứ không phải là với danh nghĩa bảo hộ Campuchia, nhường cho Xiêm (Thái Lan) tất cả các đảo ở phía Bắc mũi Lemline, kể cả đảo Koh Kut.
Về sau, năm 1910, Uỷ ban được giao trách nhiệm tiến hành phân định các biên giới Nam Kỳ và Campuchia cũng không nhận được kiến nghị nào của phía Campuchia có liên quan đến việc xác định chủ quyền các đảo.
II. Vấn đề tranh chấp trên vịnh Thái Lan và Đường Brévié
Lợi ích kinh tế làm nảy sinh tranh chấp
Tranh chấp chủ quyền các đảo và biên giới trên vịnh Thái Lan giữa Campuchia và Việt Nam chỉ bắt đầu vào năm 1931, khi Khâm sứ Pháp ở Campuchia nhận được một đơn xin đặc nhượng một miếng đất trên đảo Koh Tang. Ngoài ra ông Fournier, Tỉnh trưởng Hà Tiên trong vòng không đầy một tháng đã nhận được 14 bản khai về chu vi các mỏ khoáng sản liên quan đến các đảo trong vịnh.
Các mỏ này có những vỉa rất giàu quặng phốt phát, quặng sắt khiến nhiều nhà thăm đò lưu tâm. Lấy lý do các đảo gần bờ biển Campuchia, Khâm sứ Campuchia kiến nghị Thống đốc Nam Kỳ giao các đảo đó cho chính quyền Campuchia vì “vị trí địa lý của các đảo này gắn bó chúng một cách tự nhiên vào Campuchia là nơi việc giám sát có thể tiến hành tốt hơn do gần nhà đương cục Campuchia”.
Theo yêu cầu của Thống đốc Nam Kỳ, Khâm sứ Campuchia bằng thư đã trả lời rằng: “Mặc dầu đã tiến hành tìm kiếm tỉ mỉ, vẫn không thể thu thập được các yếu tố nghiêm chỉnh cho phép xác định một cách tuyệt đối các quyền tương ứng của Nam Kỳ và Campuchia đối với các đảo trong vịnh Xiêm”.
Về việc này, ông Khâm sứ Campuchia đưa ra một sơ đồ vịnh Thái Lan, trong đó có một ranh giới giả định được Phòng Địa bạ Campuchia trình bày mà theo ông ta cho rằng có thể thích hợp vì đường ranh giới đó có tính đến vị trí địa lý, các ảnh hưởng tương ứng của Nam Kỳ và của Campuchia và các sắc tộc của vài ngôi làng có các ngư dân định cư tại đó.
Đường phân chia đó chạy gần như song song với vĩ tuyến 10°30’ ở phía Bắc đảo Phú Quốc, có thể cho Campuchia vài hòn đảo gần bờ biển của nước này; đó là các đảo Phú Dự, đảo Tiên Mối và đảo Dừa.
Tuy nhiên, phía Campuchia lúc này đã chỉ đưa ra yêu sách đối với nhóm các đảo gần Réam mà không có yêu sách gì về đảo Phú Quốc lẫn nhóm đảo Hải Tặc, hay các đảo ở ngoài biển khơi. Thống đốc Nam Kỳ không chấp nhận kiến nghị nói trên và vấn đề bị treo lại cho đến năm 1936.
Khác với cuộc tranh cãi năm 1913, nguồn gốc cuộc tranh chấp trong thời kỳ 1936-1937 do các lý do về thuế khoá tạo ra. Chính quyền bảo hộ Campuchia lấy lý do thu thuế các ngư dân trong vùng nêu ra việc cần thiết phải giải quyết dứt điểm vấn đề quyền sở hữu về các đảo đó.
Thực vậy, ngư dân Campuchia thường qua lại các đảo và các mỏm đá thuộc chủ quyền của Nam Kỳ để tiếp tế nước ngọt và để ẩn náu khi thời tiết xấu. Cho đến năm 1935, ngư dân Campuchia vẫn đóng một phần thuế cho Campuchia.
Đảo Thổ Chu thuộc huyện Thổ Châu tỉnh Kiên Giang, Việt Nam trên Google Maps, điểm đánh dấu đỏ. Ảnh: Giaoduc.net.vn.
Tuy nhiên, do việc Nam Kỳ đặt các trạm thuế quan trên một số đảo và mức thuế lợi hơn nhiều so với tiền thuế do nhà đương cục Campuchia thu, nên dần dần họ từ chối không nộp thuế cho tỉnh Kampot, và họ muốn nộp thuế cho Nam Kỳ. Tất nhiên, sự thay đổi đó làm thiệt hại cho ngân sách địa phương Kampot.
Khâm sứ Campuchia liền đề nghị với Thống đốc Nam Kỳ một tạm ước: “Vì lý do quy chế đặc biệt của các lãnh thổ đó, là những lãnh thổ mặc dầu nằm trong vùng biển gần với Campuchia, nhưng về pháp luật lại thuộc chủ quyền của Nam Kỳ, đối với tôi sẽ có ích nếu chấp nhận đối với vấn đề thu thuế các vùng đánh cá một tạm ước (modus vivendi) tính đến tình hình thực tế hơn là tình hình pháp luật”, Thư của Khâm sứ Campuchia gửi Toàn quyền Đông Dương viết.
Để giải quyết dứt điểm vấn đề thuế khoá, Tỉnh trưởng Hà Tiên đề ra việc lấy tiêu chuẩn là nơi cư trú hợp pháp của thuộc dân. Người địa phương ghi tên và cư trú ở Nam Kỳ, đánh cá ở các vùng ngay gần các đảo của Nam Kỳ sẽ chịu chế độ thuế áp dụng tại thuộc địa này. Trái lại, quy định đang thi hành ở Campuchia sẽ áp dụng đối với những người thuộc quốc tịch Campuchia và đóng thuế thân ở Campuchia.
Tuy nhiên chính quyền bảo hộ Campuchia từ chối đề nghị hợp lý đó lấy lý do là nơi cư trú hợp pháp của ngư dân trước đây khó xác định chính xác, vì ngư dân là nhóm cư dân sống bồng bềnh trên mặt nước, những người “chỉ có thể tìm đến chỗ họ bằng cách dùng ca nô đi đến những nơi họ đánh cá, và họ trước hết luôn tìm cách lẩn tránh các nhân viên thu thuế”.
Khâm sứ Campuchia gợi ý một giải pháp khác ấn định một ranh giới gần như song song với bờ biển, cách bờ biển 5 km. Phía trong đường phân định này, các vùng đánh cá sẽ được đặt dưới quy định của Campuchia, phía ngoài đường phân định chúng sẽ chịu các khoản thuế áp dụng ở Nam Kỳ.
Cần lưu ý là nếu kiến nghị này được chấp nhận, các đảo Phú Dự, Tiên Mới và đảo Dừa sẽ nằm trong lãnh hải của Campuchia và “Campuchia, nước bảo hộ, sẽ được kiểm soát một phần lãnh thổ Nam Kỳ, xứ có chủ quyền đầy đủ”. Tất nhiên nhà cầm quyền Nam Kỳ không muốn như vậy.
Nhưng vì cho rằng giải pháp này sẽ gây ra những trở ngại đáng kể, Khâm sứ Campuchia kết luận là nên giữ nguyên trạng và đề nghị Thống đốc Nam Kỳ đồng ý. Do đó, nhà cầm quyền Campuchia có thể tiếp tục như trước đây thu thuế của một số ngư dân Campuchia, sống trên các đảo của Nam Kỳ gần bán đảo Réam và bờ biển Campuchia.
Bằng bức thư N°13124 ngày 8-12-1936, Thống đốc Nam Kỳ cho biết là ông đồng ý với quan điểm của Khâm sứ Campuchia về việc nên duy trì nguyên trạng, với điều kiện là chính quyền bảo hộ của Campuchia phải:
- Nhân danh nước Bảo hộ, đồng ý là các đảo có liên quan được nêu tên cụ thể, là thuộc chủ quyền Nam Kỳ;
- Quyết định các khoản thuế đang thu hiện nay không vì lý do gì sẽ có thể mở rộng sang các đảo khác;
- Quyết định rằng khoản bồi hoàn nguyên tắc 100$ mỗi năm sẽ được tỉnh Kampot trả cho tỉnh Hà Tiên.
Toàn quyền Đông Dương Brévié vạch ranh giới kiểm soát hành chính trên vịnh Thái Lan
Sau đó, chính phủ Bảo hộ Campuchia cho rằng phải đưa tranh chấp này lên người đứng đầu chính quyền thuộc địa Pháp ở toàn cõi Đông Dương để tranh thủ, lợi dụng thời điểm bổ nhiệm Toàn quyền Đông Dương mới là Brévié mà tên tuổi gắn liền với lịch sử các quan hệ trên biển giữa Campuchia và Việt Nam. Như vậy, Khâm sứ Pháp ở Campuchia đã đặt vấn đề chuyển giao một số đảo từ trước đến năm 1937 thuộc Nam Kỳ sang cho Campuchia.
Theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp ngày 20-9-1915: “Mọi sự chuyển dịch lãnh thổ giữa các xứ trong Đông Dương thuộc Pháp được thực hiện bằng một nghị định của Toàn quyền Đông Dương, được Hội đồng Chính phủ Đông Dương thông qua, sau khi có ý kiến của Hội đồng Bảo hộ, Hội đồng Thuộc địa. Các Nghị định đó chỉ có hiệu lực khi được các Bộ trưởng Thuộc địa chuẩn y”.
Chấp hành quy định đó, Toàn quyền Đông Dương Brévié đã gửi cho Khâm sứ Pháp ở Campuchia và Thống đốc Nam Kỳ bản dự thảo nghị định vạch một đường xuất phát từ biên giới đất liền giữa Campuchia và Nam Kỳ, chạy ra biển vòng qua Bắc đảo Phú Quốc cách các điểm nhô ra nhất của bờ Bắc đảo Phú Quốc 3km, coi đó là đường biên giới giữa hai bên.
Các đảo phía Bắc đường này được sát nhập vào Campuchia, các đảo phía Nam đường này tiếp tục thuộc Nam Kỳ. Hội đồng bảo hộ Campuchia đã đồng ý với dự thảo, nhưng Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ trong phiên họp ngày 26-1-1938 đã không đồng ý với dự thảo và đề nghị: Xét về cả ba mặt lịch sử, chính trị và dân tộc “các đảo đó cần được tiếp tục thuộc Nam Kỳ”.
Trước tình hình đó, Toàn quyền Đông Dương không ra Nghị định về chuyển dịch lãnh thổ giữa hai xứ mà dùng một hình thức thấp hơn hẳn là gửi một bức thư ngày 31-1-1939 cho Thống đốc Nam Kỳ vạch một đường hợp với kinh tuyến Bắc tạo thành một góc 140°, đường đó vòng qua phía Bắc đảo Phú Quốc cách các điểm nhô ra nhất của bờ phía Bắc đảo Phú Quốc 3km. Trong thư không nói rõ đường đó chấm dứt ở đâu.
Tất cả các đảo ở phía Bắc con đường này từ nay sẽ do Campuchia quản lý; tất cả các đảo phía Nam con đường này, kể cả toàn bộ đảo Phú Quốc sẽ tiếp tục do Nam Kỳ quản lý. Trong thư này Toàn quyền Đông Dương dùng hai từ khác nhau: đối với Campuchia là “từ nay”, còn đối với Nam Kỳ là “tiếp tục”.
Bức thư nói rõ: Đương nhiên là ở đây chỉ đề cập đến vấn đề hành chính và cảnh sát, còn vấn đề quy thuộc lãnh thổ của các đảo này hoàn toàn được bảo lưu. Bức thư này được đồng gửi cho Khâm sứ Pháp ở Campuchia. Ông này cho đăng bức thư trong Công báo Campuchia trong mục Thông tư, nên về sau mới có người lầm lẫn gọi là “Thông tư Brévié”.
Campuchia cắt xén nội dung bức thư của Toàn quyền Đông Dương Brévié làm phức tạp thêm tranh chấp
Đáng lưu ý là khi đăng bức thư này, Khâm sứ Campuchia đã cắt bỏ một đoạn nội dung của bức thư khẳng định việc hoàn toàn bảo lưu vấn đề quy thuộc lãnh thổ. Thống đốc Nam Kỳ đã không cho đăng bức thư của Toàn quyền Đông Dương Brévié trong Công báo.
Vì bức thư không được đăng trong Công báo Đông Dương và Công báo Nam Kỳ, bản được đăng ở Công báo Campuchia lại không theo đúng nguyên bản nên cho đến nay cả ta và Campuchia đều chưa tìm thấy sơ đồ của đường Brévié đính kèm theo bức thư của Toàn quyền Đông Dương.
Cũng vì vậy hiện nay có nhiều cách thể hiện về đường Brévié. Ví dụ: Trong luận án tiến sỹ của Sarin Chhak, Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia thời Sihanouk, đường Brévié được thể hiện không phải là một đường liên tục mà là một đường đứt đoạn với 4 đoạn cách nhau khá xa.
Bộ Tư lệnh Hải quân của Việt Nam Cộng hòa khi công bố đường ranh giới tuần tiễu trên biển đã thể hiện đường Brévié chấm dứt ngay ở Đông Bắc Phú Quốc. Tiến sĩ Mark J. Valencia thuộc trung tâm Đông – Tây của Hoa Kỳ trong một cuốn sách xuất bản năm 1985 đã thể hiện đường Brévié theo các đoạn thẳng, cách các điểm nhô ra nhất của đảo Phú Quốc 3km.
Đây cũng là cách mà Nicholas Prescott, giáo sư người Australia thể hiện trong một cuốn sách xuất bản năm 1981. Cách thứ tư là cách vẽ của chính quyền Pol Pot khi công bố bản đồ nước Campuchia tháng 8-1977. Đây là cách thể hiện xa rời câu chữ của bức thư Brévié nhất:
Trong thư viết đường Brévié vòng qua Bắc đảo Phú Quốc, cách điểm nhô ra nhất của bờ Bắc đảo Phú Quốc 3km thì sơ đồ này đã thể hiện đường Brévié vòng từ phía Bắc đảo rồi trở lại về phía Đông Nam đảo theo một đường liên tục, điểm nào cũng cách bờ biển Phú Quốc 3km.
Tóm lược lại tranh chấp chủ quyền các đảo trong vịnh Thái Lan giữa Campuchia và Việt Nam
Lược lại những dấu mốc diễn biến chính của vấn đề biên giới trên biển và chủ quyền đối với các đảo trên vịnh Thái Lan giữa Campuchia và Việt Nam có thể thấy, tình trạng tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Campuchia trong lịch sử là rất phức tạp. Giai đoạn trước năm 1939, là giai đoạn có nhiều tranh chấp phức tạp nhất về chủ quyền, các quyền và lợi ích giữa hai nước đối với các đảo và vùng biển có liên quan.
Ngay cả khi thực dân Pháp sau khi đã thiết lập xong chính quyền thuộc địa ở Nam Kỳ và chính quyền bảo hộ ở Campuchia cũng phải tìm cách xác định về mặt giới hạn địa lý và quản lý hành chính giữa 2 bên bằng những Hiệp ước, Nghị định, Quyết định.
Năm 1858, Pháp bắt đầu đánh chiếm Việt Nam, Việt Nam thua trận phải ký Hiệp ước nhường cho Pháp 6 tỉnh Nam Kỳ, trong đó có Hà Tiên và các đảo thuộc tỉnh này.
Trong một thời gian dài, từ thế kỷ XVIII (1715) đến tận đầu thế kỷ XX (1913), vấn đề chủ quyền các đảo trong vịnh Thái Lan đã không hề được nêu ra cho đến khi người Pháp đến, các đảo đó từ trước đã thuộc sở hữu của vương quốc An Nam và chúng được chuyển giao cho nhà cầm quyền Pháp căn cứ vào Hiệp ước giữa triều đình nhà Nguyễn của Việt Nam với nước Pháp ký ngày 15/3/1874.
Bằng các Nghị định ký ngày 25/5/1874 và 16/6/1875, Thực dân Pháp đã đặt các đảo dưới quyền cai trị của Hà Tiên. Mãi đến năm 1913, khi đặt vấn đề xung quanh việc xin đặc nhượng và thu thuế các ngư dân trong vùng (1936-1937) vấn đề quy thuộc quyền quản lý các đảo mới được đặt ra.
Đến năm 1939, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương vạch ra đường Brévié phân chia khu vực quản lý hành chính và cảnh sát giữa 2 nước trên vịnh Thái Lan. Như vậy có thể thấy rằng, từ thế kỷ XVIII đến năm 1939, toàn bộ các đảo giữa Việt Nam và Campuchia đều thuộc chủ quyền Việt Nam.
Chỉ từ sau năm 1939 theo quyết định của Toàn quyền Pháp tại Đông Dương, Campuchia mới được “phân công quản lý hành chính” các đảo phía Bắc đường Brévié chứ không đặt vấn đề quy thuộc lãnh thổ, nói cách khác là bảo lưu tình trạng quy thuộc lãnh thổ đã có trước đó.
III. Vấn đề vùng nước lịch sử
Campuchia cất quân đánh chiếm các đảo, Khmer Đỏ xâm lược Thổ Chu
Đến năm 1956, Campuchia đưa quân ra chiếm đảo Phú Dự, chiếm nhóm đảo Bắc Hải Tặc năm 1958 và đảo Wai năm 1966. Trong năm 1972, chính quyền Lon Nol ra Sắc lệnh về ranh giới thềm lục địa (số 439-72/PRK, ngày 1-7-1972) và Sắc lệnh quy định hệ thống đường cơ sở và lãnh hải Campuchia (số 518-721PKR, ngày 12-8-1972) quy thuộc các đảo Phú Quốc và Thổ Chu của Việt Nam vào lãnh thổ Campuchia.
Năm 1976, chính quyền Pol Pot đòi lấy đường Brévié làm đường biên giới biển giữa hai nước vì theo họ “đường này đã được sử dụng như đường biên giới trong gần 40 năm qua”. Đồng thời Khmer Đỏ đã tiến hành hàng loạt cuộc thảm sát tàn khốc đối với dân cư Việt Nam sinh sống trên các đảo này.
Ngày 10 tháng 5 năm 1975 quân Khmer Đỏ đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt và sát hại toàn bộ hơn 500 cư dân Việt Nam, biến Thổ Chu thành hòn đảo chết. Sự kiện đó là đỉnh điểm của những hành động xuất phát từ ảo tưởng chủ quyền và bản chất tàn bạo của chế độ diệt chủng Pol Pot. Tuy nhiên, không lâu sau đó Hải quân Nhân dân Việt Nam đã đánh đuổi quân Khmer Đỏ, giải phóng đảo Thổ Chu vào ngày 24 tháng 5 năm 1975.
Ngày 31-7-1982, Campuchia đã ra tuyên bố hệ thống đường cơ sở thẳng bao gồm cả các đảo nằm xa bờ như đảo Wai.
Hiệp định Vùng nước lịch sử là một điều ước quốc tế có giá trị pháp lý
Năm 1982, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa hai nước, trong đó thoả thuận “lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia các đảo trong khu vực này” và “sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước”.
Đây là lần đầu tiên hai nước thừa nhận chủ quyền của các bên đối với các đảo giữa hai nước. Hiệp định này đã nâng đường Brévié từ ranh giới quản lý hành chính và cảnh sát thành đường phân chia chủ quyền đảo giữa hai nước nhưng cũng xác nhận giữa hai nước chưa có đường biên giới biển.
Nội dụng cơ bản của Hiệp định Vùng nước lịch sử là:
Thứ nhất, vùng nước nằm bên trong bờ biển tỉnh Kiên Giang, đảo Phú Quốc đến đảo Thổ Chu của Việt Nam và bờ biển Kampot đến đảo Poulo Wai của Campuchia là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy;
Thứ 2, hai bên lấy đường Brévié vạch ra năm 1939 làm đường phân chia đảo trong khu vực này;
Thứ 3, việc tuần tiễu, kiểm soát trong vùng nước lịch sử này do cả 2 bên cùng tiến hành;
Thứ 4, việc đánh bắt hải sản của nhân dân địa phương trong vùng này vẫn tiếp tục theo tập quán làm ăn từ trước đến nay. Đối với việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên trong khu vực này hai bên sẽ cùng nhau thỏa thuận.
Sơ đồ Vùng nước lịch sử 1982 giữa Việt Nam và Campuchia, ảnh do tác giả cung cấp. Nguồn: Giaoduc.net.vn.
Về phương diện pháp lý, Hiệp định này đã đáp ứng đủ các điều kiện cần và đủ của một Điều ước quốc tế vì: Đây là kết quả của sự thỏa thuận giữa 2 Nhà nước của 2 Quốc gia có chủ quyền, đáp ứng đầy đủ nguyên tắc thỏa thuận, thể hiên đầy đủ ý chí của đôi bên, không có sự áp đặt, bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế, phù hợp với những quy định hiện hành của luật pháp quốc tế.
Hiệp định này được ký kết bởi người đại diện có thẩm quyền của 2 Nhà nước là Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao và được phê chuẩn bởi Cơ quan quyền lực cao nhất cuả 2 Nhà nước.
Về những nội dung cụ thể của hiệp định đều là kết quả của sự vận dụng các nguyên tăc của luật pháp và thực tiễn quốc tế đã được thừa nhận, áp dụng một cách rộng rải trong quan hệ quốc tế. Hiệp định Vùng nước lịch sử có ý nghĩa to lớn trong việc củng cố mối quan hệ hữu nghị giữa 2 nước Việt Nam và Campuchia nói chung và tạo sự ổn định, hòa bình và phát triển của vùng biển Tây Nam nói riêng.
Đặc biệt là việc nâng đường Brévié được vạch ra năm 1939, từ phân định ranh giới quản lý hành chính và cảnh sát, lên thành đường phân chia chủ quyền các đảo, là một sự vận dụng đúng đắn các nguyên tắc của Luật pháp quốc tế, có sự kết hợp một cách khách quan, cầu thị và đặc biệt là xuất phát từ thiện chí của người Việt Nam, một dân tộc đã từng không tiếc máu xương của biết bao thế hệ để vun đắp và giữ vững quan hệ hữu nghị truyền thống giữa 2 nước Việt Nam và Campuchia.
Thực hiện các nội dung của Hiệp định vùng nước lịch sử, công tác tuần tra kiểm soát tại vùng nước lịch sử được các lực lượng giữa 2 nước phối hợp thực hiện.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, thực hiện Hiệp định về vùng nước lịch sử của 2 nước Việt Nam và Campuchia ký ngày 7/7/1982 cũng như trên cơ sở thỏa thuận giữa Bộ Quốc phòng 2 nước Campuchia và Việt Nam ký ngày 22/8/2002 tại Thủ đo Phôm Pênh Campuchia, ngày 14/9/2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tư lệnh Hải quân Nhân dân Việt Nam và Tư lệnh Hải quân Hoàng gia Campuchia đã ký quy chế phối hợp tuần tra chung và lập thông tin liên lạc giữa 2 nước.
Theo quy chế này, Hải quân 2 nước mỗi năm sẽ tổ chức 4 chuyến tuần tra chung và 2 hội nghị rút kinh nghiệm tuần tra chung ở mỗi bên. Cho đến nay, 2 bên đã tổ chức được 30 chuyến tuần tra và 14 lần tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm công tác tuần tra chung. Việc phối hợp giữa Vùng 5 Hải quân nhân dân Việt Nam và Hải quân Hoàng gia Campuchia, với các cơ quan chức năng của 2 nước ngày càng được củng cố và phát triển trên tinh thần đoàn kết, tin tưởng lẫn nhau.
Những kết quả đó đã tạo thêm thế và lực trong giải quyết mối quan hệ, chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc của mỗi nước, đồng thời thúc đẩy xu hướng hòa bình, ổn định hợp tác, ngăn ngừa đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh trên các vùng biển. Từ đó đảm bảo cho các hoạt động kinh tế phát triển, tránh được các vi phạm pháp luật của các phần tử xấu.
Tất cả những gì mà tôi đã tóm lược nói trên có lẽ cũng đã phần nào giúp bạn đọc tự lý giải lý do cũng như “nội hàm” lời phát biểu của Thủ tướng Campuchia Hun Sen trước Nội các nước này rằng: “Ở thời điểm đó, họ đã “bỏ rơi” đảo Koh Tral (tức đảo Phú Quốc của Việt Nam) và Kampuchea Krom (tức người Khmer ở Nam Bộ, ViệtNam)…cho Việt Nam. Tôi không thể đòi lại được”.
Thiết nghĩ, xuất phát từ truyền thống của một dân tộc đầy lòng vị tha, bao dung, chúng ta cũng nên cảm thông và chia sẻ những gì mà Thủ tướng Hun Sen đang phải đối măt trong tình hình chính trị rối ren của đất nước chùa tháp hiện nay.
Tuy nhiên, chúng ta cũng mong rằng Thủ tướng Hun Sen có đủ bản lĩnh của một chính khách dày dạn kinh nghiệm để vượt qua thử thách này mà không cần phải sử dụng đến “con dao 2 lưỡi”.
“Cái lưỡi” chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản động đang được các thế lực đối lập trong và ngoài Campuchia cố tình cắt ghép và tìm cách dúi vào tay những người Campuchia hiền lành nhưng thiếu thông tin, hiểu biết về biên giới lãnh thổ cũng như quy trình đàm phán, phân giới căm mốc để kích động dân chúng tự tàn sát nhau vì những đông cơ chính trị đen tối!
Theo NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ
Tags: Campuchia, Vịnh Thái Lan, Quan hệ Việt Nam - Campuchia, Chủ quyền Việt Nam