Sự trong sạch của tâm hồn – bức thư cuối đời của Hàn Mặc Tử

“Hỡi các vị thiên thần của trời, thiên thần của Chúa, thiên thần của hòa bình và hoan lạc, xin hãy mang lại cho tôi một vòng hoa…”.

Mộ nhà thơ Hàn Mặc Tử ở Quy Nhơn.

Hàn Mặc Tử bị bệnh phong khoảng năm 1933. Lúc bấy giờ, y học chưa tìm ra DDS, một loại thuốc đặc trị bệnh này. Vì thế gia đình ông đã mời các lang y đến chữa bệnh. Hầu hết các loại thuốc mà Hàn Mặc Tử uống là độc dược chế từ nọc rắn mai gầm hay rắn hổ mang. Sau một thời gian chữa bệnh, bệnh trạng ngày một nặng thêm; tuy chưa bị tàn phế nhưng toàn thân gầy yếu, da bầm đen, dấu hiệu của ngộ độc thuốc trường diễn.

Hàn Mặc Tử vào bệnh viện phong Quy Hòa ngày 21 tháng 9 năm 1940. Theo ông Nguyễn Văn Xê (hiện còn sống), cùng chữa bệnh, thì tình trạng của Hàn Mặc Tử lúc bấy giờ thật là thê thảm. “Hai mắt nằm lọt vào hai lỗ hũm sâu hoắm đến không còn mở ra được. Thân hình chỉ còn da bọc xương, chân tay co rút lại mà đầu tóc bù xù rồi trết lại, trong đó nhô nhúc những chấy là chấy. (Thư của ông Nguyễn Văn Xê đề tại Qui Hòa 25 – 3 – 1941).

Với thực trạng như vậy, việc sáng tác của Hàn Mặc Tử rất khó khăn. Ông có viết thư cho gia đình và bè bạn. Qua nét chữ xiêu vẹo, người ta thấy được thảm cảnh của ông lúc ấy.

Bài văn “Sự trong sạch của tâm hồn” được ông viết vào đêm 24 tháng 10 năm 1940 nhằm ca ngợi công ơn các mẹ, các chị dòng Franciscain đã hết lòng chăm sóc ông và những người bạn ở Quy Hòa. Sau khi ông mất (11 – 11 – 1940) người ta tìm được trong túi áo ông khi khâm liệm và trao lại cho các nữ tu sĩ. Bài văn được viết bằng tiếng Pháp, bản dịch của ông Trần Thanh Mại.

“Hỡi các vị thiên thần của trời, thiên thần của Chúa, thiên thần của hòa bình và hoan lạc, xin hãy mang lại cho tôi một vòng hoa.

Tôi muốn tắm trong bể ánh sáng và lòng yêu kính thiêng liêng.

Bởi vì dưới cõi trần gian, đã thành tựu nhiều phép lạ, nó làm cho người ta phải nghẹn ngào vì khâm phục khi ngưỡng vọng cái sự nghiệp thần bí của đấng Tối Cao.

Hỡi các vị thiên thần của Trời, thiên thần của Chúa, thiên thần hòa bình và hoan lạc, các người có thấy cái ánh sáng trong mờ ngày càng rõ rệt, cái màu sắc trắng tuyết kia, cái hình hài không vết bợn kia, cái linh hồn hiện lên nơi cõi thế kia, ngay khi mới thấy, tôi đã chắc đó là cái hồn phách của các vị thánh, các thi tứ, cái tinh hoa của sự cầu nguyện đáng lẽ thì bốc lên hương thơm và tinh khí, nhưng đây chỉ khiêm tốn quyết định hóa ra Người.

Hỡi các vị thiên thần của Trời, thiên thần của Chúa, thiên thần hòa bình và hoan lạc, xin hãy vỗ tay lên: bởi vì đó là các Mẹ và các Chị dòng Saint Francoi d’ Assise, xuống cõi trần gian để an ủi những đau khổ, lo âu của loài người yếu đuối, của các bệnh nhân tàn tật, của những kẻ phong hủi là chúng tôi đây.

Tôi muốn ca lên những bài ca khen ngợi, hứng uống cho thật đã những lời êm dịu của các bà, khi các bà đồng hát bài thánh ca : Hosanna ! Hosanna ? (xin cứu với, xin cứu với !)

Tôi muốn bao giờ cũng tán thưởng cái hình thể trắng tinh không vết ấy, sức tươi mát, nguồn ánh sáng, bầu thơ ấy, vì tất cả đó là biểu tượng của

TẤM LINH HỒN THANH KHIẾT

Hỡi các vị thiên thần của Trời, thiên thần của Chúa, thiên thần hòa bình và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những đóa hoa hồng, hoa súng, những điệu hát réo rắt và những hơi nhạc thơm tho, và hãy xin rưới trúc cho tràn trề nào là đức hạnh, can đảm và hạnh phúc cho những vị nữ tỳ của Đức Chúa”

Đêm thứ tư 24 tháng mười 1940
FRANCOIS TRÍ
Cảm tạ Thượng đế”

Theo BÁO VĂN NGHỆ

Tags: ,