Những lý luận chung về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo

2. Chuẩn mực về đói nghèo ở Việt Nam và Trên thế giới

Chuẩn mực đói nghèo của 1 số nước trên thế giới

Theo ngân hàng thế giới (WB), từ những năm 80 cho đến nay chuẩn mực để xác định gianh giới giữa người giàu với người nghèo ở các nước đang phát triển và các nước ở khu vực ASEAN được xác định bằng mức chi phí lương thực, thực phẩm cần thiết để duy trì cuộc sống với mức tiêu dùng nhiệt lượng từ 2100 – 2300 calo/ngày/người hoặc mức thu nhập bình quân tính ra tiền là 370USD/người/năm.

* Ở Ấn Độ: Lấy tiêu chuẩn là 2250 calo/người/ngày.

* Bangladesh lấy tiêu chuẩn là 2100 calo/người/ngày.

* Ở Indonesia: Vào đầu những năm 80 lấy mức tiêu dùng nhiệt lượng là 2100 calo/người/ngày làm mức chuẩn để xác định gianh giới giữa giàu với nghèo.

* Ở Trung Quốc: năm 1990 lấy mức tiêu dùng là 2150calo/người/ngày.

* Các nước công nghiệp phát triển châu âu: 2570 calo/người/ngày.

Ở Việt Nam:

Năm 1993 theo Tổng cục thống kê lấy mức tiêu dùng là 2100 calo nếu quy đổi tương đương với lượng tiêu dùng lương thực, thực phẩm theo giá phù hợp với từng thời điểm, từng địa phương thì người dân Việt nam phải có mức thu nhập bình quân tối thiểu là 50000đồng/người/tháng ở vùng nông thôn và 70000 đồng đối với khu vực thành thị, để làm gianh giới xác định giữa người giàu và người nghèo.

Theo cách tình này thì mức thu nhập bình quân đầu người ở các hộ khu vực nông thôn nước ta được quy ra tiền để xác định gianh giới giữa những hộ giàu và hộ nghèo như sau:

– Loại hộ nghèo: có mức thu nhập bình quân dưới 50000/người/tháng. Hộ đói dưới 30000/người/tháng.

-Loại hộ dưới trung bình: có thu nhập bình quân từ 50000-70000/người/tháng.

-Loại hộ trung bình: có mức thu nhập bình quân đầu người từ 70000-12500/người/tháng.

-Loại hộ trên trung bình: có mức thu nhập bình quân từ 125000-250000/người/tháng.

– Loại hộ giàu: có thu nhập từ 250000/người/tháng trở lên.

Sau 1 thời gian căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế thì tại thông báo số1751/LĐ-TB&XH của bộ LĐ-TB&XH ngày 20.5.1997 thì chuẩn mực về đói nghèo được quy định lại như sau:

+ Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân theo đầu người dưới 13 kg gạo/tháng tương đương 45000/tháng đối với tất cả các vùng.

+ Hộ nghèo: là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người 15kg gạo/người/tháng tương đương 55000 ở khu vực nông thôn, miền núi.

-20kg gạo/người/tháng dối với khu vực nông thôn đồng bằng và trung du.

– 25kg gạo/người/tháng đối với khu vực thành thị.

Tại quyết định số 1143/2000 QĐLĐTBXH ngày 1.11.2000 của bộ trưởng bộ LĐ-TBXH đã phê duyệt chuẩn mức đói nghèo mới giai đoạn 2001-2005 theo mức thu nhập bình quân đâu người cho từng vùng cụ thể như sau:

– Vùng nông thôn miền núi hải đảo: 80000 đồng/người/tháng tương đương 960000 đồng/năm.

– Vùng nông thôn đồng bằng: 100000 đồng/người/tháng tương đương 1200000 đồng/năm.

– Vùng thành thị: 150000 đồng/người/tháng tương đương 1800000/năm.

Theo tiêu chuẩn này thì tính đến năm 2000, cả nước có khoảng 4 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ từ 24-25% tổng số hộ trong cả nước. Trong đó 4 vùng có tỷ lệ đói nghèo trên 30%. Ước tính tỷ lệ hộ đói nghèo ở các vùng như sau:

Vùng Số hộ nghèo (1000hộ) Tỷ lệ hộ nghèo (%)
Miền núi phía Bắc 923,3 34.1
Đồng bằng sông hồng 482.1 14
Bắc trung bộ 833.8 38.6
Duyên hải miền trung 555.7 31.9
Tây Nguyên 257.5 36.1
Đông nam bộ 261.4 12.8
Đồng bằng sông cửu Long 686.2 20.3

Đặc biệt, tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã miền núi, vùng sâu và vùng xa tỷ lệ này còn cao hơn mức trung bình của cả nước: Bắc trung Bộ 38,6%; Tây nguyên 36,1%; Miền núi phía bắc34,1%; Duyên hải miền trung 31,9% .

Chuẩn mực đói nghèo là một khái niệm động, phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận điều kiện kinh tế và thời gian quy định.

>> XEM TIẾP: 3. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo

Tags: , ,