Nhận diện ngoại giao kinh tế trong quan hệ quốc tế

Ngoại giao kinh tế ra đời cùng với các mối quan hệ kinh tế trong quan hệ quốc tế. Các chính sách đối ngoại và đối nội của mỗi quốc gia đều hướng tới mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế đã và đang trở thành những nhân tố mang tính quyết định và chủ đạo trong “ngoại giao tổng thể” của một quốc gia.

Nhận diện ngoại giao kinh tế trong quan hệ quốc tế

Tác giả: ThS Đào Thị Nguyệt Nguyệt Hằng, Vụ Hợp tác quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

1. Khái niệm ngoại giao kinh tế

Lịch sử quan hệ quốc tế đã trải qua các loại hình ngoại giao truyền thống và đặc thù: “ngoại giao năng lượng”, “ngoại giao pháo hạm”, “ngoại giao bóng bàn”, “ngoại giao tôn giáo”, “ngoại giao nhân quyền”… Trong vài thập kỷ trở lại đây, quan hệ giữa các quốc gia đang hình thành một xu thế mới – ngoại giao kinh tế. Ngoại giao kinh tế chỉ loại ngoại giao với xuất phát điểm là mở rộng lợi ích kinh tế ở mức lớn nhất có thể, để xác định mục tiêu hoạt động ngoại giao, thiết lập chính sách đối ngoại, đồng thời triển khai hoạt động ngoại giao tương ứng.

“Ngoại giao kinh tế” không phải là khái niệm mới. Ngoại giao với những mục tiêu kinh tế ra đời từ khá sớm. Kể từ thời Phục hưng của Italy, kinh tế đã trở thành một trong hai nhiệm vụ song hành của ngành ngoại giao bên cạnh chính trị và an ninh. Vào những thập niên 1950-1970, ngoại giao kinh tế còn được biết đến với tên gọi Ngoại giao thương mại (Trade Diplomacy), ra đời cùng với quá trình quốc hữu hóa các ngành công nghiệp ở nhiều quốc gia. Nó bắt nguồn từ sự tham gia của các nhà ngoại giao trong các vấn đề thương mại, đó là việc giúp các quốc gia có thể phân phối hàng hóa, sản phẩm sang các quốc gia khác. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, xung đột quân sự và sự chia cắt thế giới thành hai phe đã khiến cho vai trò của ngoại giao kinh tế mờ nhạt hơn. Nhưng sau đó, một trào lưu mới của quá trình toàn cầu hóa xuất hiện, kinh tế một lần nữa khẳng định vai trò nổi bật của mình và trong quan hệ quốc tế nổi lên vấn đề ngoại giao kinh tế. Thuật ngữ “ngoại giao kinh tế” cũng bắt nguồn từ đây và trở nên phổ biến(1).

Theo định nghĩa của G.R.Berridge và Aliab James, ngoại giao kinh tế là hoạt động ngoại giao liên quan đến các vấn đề kinh tế bao gồm công tác của các đoàn ngoại giao cho đến các hội nghị quốc tế, do các tổ chức quốc tế đảm nhận, chẳng hạn như Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đồng thời, hoạt động ngoại giao kinh tế cũng bao hàm việc theo dõi và báo cáo cho chính phủ về tình hình, chính sách kinh tế của nước nhận đại diện nhằm có những biện pháp thích hợp tạo nên sự ảnh hưởng đến kinh tế nước đó. Bên cạnh đó, ngoại giao kinh tế cũng liên quan tới việc sử dụng các nguồn tài nguyên kinh tế, các biện pháp như trừng phạt kinh tế nhằm theo đuổi những mục tiêu cụ thể của chính sách đối ngoại(2).

Học giả người Pháp Guy Carron de la Carriere định nghĩa, ngoại giao kinh tế là đạt mục đích kinh tế bằng phương pháp ngoại giao, không phụ thuộc vào việc ngoại giao có sử dụng những đòn bẩy kinh tế để đạt được mục tiêu hay không(3).

Nhà ngoại giao Dubravko Žirovcic quan niệm ngoại giao kinh tế là một phương tiện của chính sách đối ngoại kinh tế và những chủ thể tham gia thực hiện bao gồm: nhà nước (các nhà ngoại giao, cán bộ, nhân viên chính phủ …) và phi nhà nước (các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, công đoàn,…). Phạm vi mà các chủ thể hoạt động rất rộng, bao gồm: nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế quốc tế (thương mại quốc tế, ngoại thương, tài chính…), các tổ chức quốc tế (hệ thống Liên Hợp quốc, các chính phủ và tổ chức phi chính phủ…)(4).

Nghị định 08/2003/NĐ-CP, ngày 10/2/2003 quy định về Cơ quan của Việt Nam ở nước ngoài phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế định nghĩa: ngoại giao kinh tế là hoạt động nhằm “thúc đẩy thương mại, hợp tác đầu tư, hợp tác khoa học công nghệ, du lịch, lao động, dịch vụ, thu ngoại tệ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân Việt Nam trong hoạt động kinh tế đối ngoại”. Chủ thể chính trong hoạt động ngoại giao là các quốc gia, nhưng trong quan hệ kinh tế quốc tế có nhiều chủ thể ở cấp độ khác nhau nên điểm đặc biệt của ngoại giao kinh tế là sự đa dạng về mặt chủ thể từ các tổ chức kinh tế, tiền tệ, tài chính quốc tế, các nền kinh tế quốc gia, các công ty xuyên quốc gia, hay tập đoàn quốc tế(5).

Dưới góc độ quan hệ quốc tế, có thể phân biệt ngoại giao kinh tế với ngoại giao văn hóa. Ngoại giao kinh tế sử dụng công cụ kinh tế để hỗ trợ thực hiện các hoạt động ngoại giao. Ngoại giao văn hóa là một hình thức ngoại giao thông qua công cụ văn hóa để thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại nhằm đạt được các mục tiêu lợi ích cơ bản của quốc gia là phát triển, an ninh và ảnh hưởng. Đó là việc thực hiện chính sách đối ngoại để đạt được mục tiêu chính trị bằng công cụ văn hóa, biện pháp văn hóa. Trong đó, các giá trị văn hóa sẽ là chỗ dựa tinh thần bền vững cho các hoạt động ngoại giao, làm áp lực đối với các đối tác để thực hiện có kết quả các chính sách chính trị, kinh tế.

Ở Việt Nam, ngoại giao kinh tế cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao văn hóa là ba trụ cột của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại. Ba trụ cột này gắn bó, tác động lẫn nhau, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Ngoại giao chính trị có vai trò định hướng, ngoại giao kinh tế là nền tảng vật chất và ngoại giao văn hóa là nền tảng tinh thần của hoạt động đối ngoại(6).

Trên thực tế, có nhiều cách giải thích khác nhau về định nghĩa ngoại giao kinh tế. Xét từ góc độ chính trị, những hoạt động thông qua công cụ kinh tế để đạt được mục đích chính trị, an ninh đều thuộc ngoại giao kinh tế. Xét từ góc độ kinh tế, ngoại giao kinh tế là những hoạt động ngoại giao được khai triển thông qua công cụ kinh tế để đạt được lợi ích kinh tế.

Theo nghĩa hẹp, ngoại giao kinh tế chỉ hoạt động ngoại giao được tiến hành thông qua công cụ kinh tế để đạt được các mục đích kinh tế. Theo nghĩa rộng, ngoại giao kinh tế không chỉ là công cụ để chính phủ theo đuổi lợi ích kinh tế, mà còn được sử dụng để theo đuổi các mục đích chính trị, an ninh…

Như vậy, có thể nhận thức một cách tương đối toàn diện về ngoại giao kinh tế như sau: ngoại giao kinh tế chỉ hoạt động ngoại giao được tiến hành để thực hiện mục tiêu kinh tế, tức coi ngoại giao là công cụ để theo đuổi lợi ích về mặt kinh tế; ngoại giao kinh tế chỉ các hoạt động kinh tế được quốc gia tiến hành để thực hiện các mục tiêu ngoại giao (như chính trị hay quân sự), tức coi kinh tế là công cụ để theo đuổi lợi ích về mặt chính trị, quân sự… một cách trọn vẹn nhất.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa ngoại giao và kinh tế

Ngoại giao và kinh tế có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Đối với nền ngoại giao các quốc gia, sức mạnh kinh tế vừa là cái đích phải đạt tới, vừa là phương tiện để họ thực hiện mục tiêu của mình. Và ngược lại, bất kỳ quan hệ trên lĩnh vực nào cũng cần nền tảng là quan hệ ngoại giao, một cách chính thức hoặc trên nguyên tắc nhất định.

Sự tác động của yếu tố kinh tế đối với ngoại giao

Trước hết, vai trò quyết định của kinh tế đối với ngoại giao thể hiện ở chỗ mục tiêu kinh tế của mỗi quốc gia là cơ sở quan trọng hàng đầu để mỗi chính phủ, bộ, ngành chức năng của các nước đưa ra chiến lược, sách lược ngoại giao trong các mối quan hệ song phương và đa phương. Bất kể quốc gia nào, khi thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế cũng xuất phát từ lợi ích quốc gia, gắn liền trực tiếp hoặc gián tiếp với lợi ích kinh tế… Căn cứ trên những lợi ích đó, các đối sách ngoại giao dành cho từng đối tượng, đối tác cụ thể cũng được thiết kế và triển khai theo những phương thức, mức độ tập trung ưu tiên khác nhau. Hầu hết các hoạt động ngoại giao đều trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ những mục tiêu phát triển ở cấp độ vĩ mô hoặc vi mô, dài hạn hoặc ngắn hạn.

Vai trò quyết định của kinh tế đối với ngoại giao còn thể hiện ở chỗ, những thay đổi căn bản trong các mục tiêu kinh tế sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự điều chỉnh căn bản trong chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia. Khi các ưu tiên phát triển kinh tế thay đổi thì nhiều mối quan hệ chính trị – ngoại giao cũng được điều chỉnh theo; theo đó, một số mối quan hệ mới có thể sẽ được xây dựng, chính sách “đối tác, đối tượng” của mỗi quốc gia cũng được điều chỉnh.

Cuối cùng, kinh tế chính là tiền đề, là cơ sở vật chất bảo đảm cho mọi hoạt động đối ngoại, trước hết là ngoại giao. Như vậy, vai trò quyết định của kinh tế đối với ngoại giao được thể hiện rất đa dạng và phong phú.

Trong bối cảnh hiện nay, khi hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển kinh tế đang trở thành xu thế chính, cùng với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ thì mục tiêu tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước trong hoạt động ngoại giao có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. Hầu hết các hoạt động ngoại giao đều trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho những mục tiêu phát triển kinh tế và do đó, các quốc gia sẽ có những điều chỉnh và ưu tiên khác nhau trong các mối quan hệ bang giao với các nước. Nó thể hiện ở chỗ, khi những ưu tiên phát triển kinh tế thay đổi thì mối quan hệ chính trị, ngoại giao cũng thay đổi theo. Thậm chí, một số quốc gia còn quyết định việc xác lập cơ quan đại diện ngoại giao tùy thuộc vào mức độ kim ngạch thương mại trao đổi hai chiều. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Donald Trump cũng là một minh chứng. Tổng thống D.Trump đã đưa ra khẩu hiệu trong chiến lược phát triển quốc gia: “Từ nay về sau sẽ chỉ có nước Mỹ trước tiên, lợi ích nước Mỹ được đặt lên hàng đầu”. Mọi quyết định về thương mại, thuế, xuất nhập cảnh và đối ngoại sẽ đều nhằm mang lại lợi ích cho người lao động Mỹ và gia đình Mỹ. Việc bảo hộ hàng nội địa sẽ dẫn đến thịnh vượng và sức mạnh. Trong số 30 sắc lệnh hành pháp trong 100 ngày làm việc đầu tiên của chính quyền D.Trump, có tới 6 sắc lệnh liên quan đến việc xây dựng “hàng rào” bảo hộ nước Mỹ, tiêu biểu như: Sắc lệnh I, Sắc lệnh an ninh biên giới, Sắc lệnh cấm nhập cảnh, Sắc lệnh mua hàng Mỹ, thuê người Mỹ,… Những sắc lệnh trên đều hướng đến mục tiêu dựng hàng rào thuế quan bảo vệ các công ty, tập đoàn kinh tế Mỹ; bảo vệ việc làm cho công dân Mỹ; rút khỏi một số hiệp định thương mại tự do, hạn chế tình trạng nhập cư vào Mỹ, trục xuất khỏi Mỹ công dân nước ngoài nhập cư trái phép(7).

Sự tác động trở lại của ngoại giao đối với kinh tế

Cần phải khẳng định rằng, không có hoạt động kinh tế đối ngoại nào mà không được thực hiện thông qua ngoại giao. Nói cách khác, ngoại giao chính là nền tảng, là cơ sở để tiến hành hoạt động kinh tế đối ngoại của các quốc gia. Ngoại giao có vai trò thúc đẩy, tác động và hỗ trợ cho cho các quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư giữa các quốc gia với nhau và giữa các quốc gia trong các tổ chức, diễn đàn quốc tế, khu vực. Ngoại giao thiết lập các quan hệ, xây dựng các thiết chế pháp lý và tạo môi trường thuận lợi nhất để hoạt động kinh tế đối ngoại được triển khai tốt đẹp, nhằm phục vụ mục tiêu tối thượng là lợi ích quốc gia, dân tộc. Thực tiễn kết quả triển khai các hoạt động ngoại giao sẽ là một trong những căn cứ quan trọng để chính phủ và các cơ quan chức năng của mỗi quốc gia nghiên cứu, xem xét và đánh giá lại các mục tiêu và chính sách kinh tế của mình, trên cơ sở đó đưa ra những điều chỉnh hợp lý để các chính sách đối ngoại đạt được tối đa hiệu quả kinh tế.

Thực tế lịch sử quan hệ quốc tế chứng minh rằng, hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại tỷ lệ thuận với cấp độ quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Điều đó có nghĩa là, cấp độ quan hệ càng cao, niềm tin giữa các quốc gia càng lớn thì hoạt động ngoại giao kinh tế giữa các quốc gia đó càng phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về chất và lượng. Điển hình là trường hợp quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, sau một thời gian dài Việt Nam bị bao vây cấm vận, quan hệ ngoại giao giữa hai nước được thiết lập ngày 12/7/1995, từ sự hợp tác ban đầu còn nhỏ lẻ, bó hẹp trong vấn đề nhân đạo, được mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác, trong đó hợp tác kinh tế, thương mại được đánh giá là lĩnh vực trọng tâm và đạt nhiều kết quả tích cực nhất. Quan hệ CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc lại trái ngược, cả hai quốc gia vẫn trong giai đoạn đình chiến suốt 65 năm qua, quan hệ ngoại giao trong quá trình nỗ lực đàm phán để đi tới thống nhất, vì vậy, quan hệ thương mại, đầu tư giữa hai bên không thể triển khai. Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc được thiết lập năm 1992, trở thành “Đối tác hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21” và tiếp tục nâng cấp thành “Đối tác hợp tác chiến lược” năm 2009. Quan hệ thương mại, đầu tư hợp tác phát triển giữa hai bên liên tục tăng cùng với quá trình phát triển, nâng cấp quan hệ giữa hai nước.

Như vậy, có thể khẳng định, ngoại giao và kinh tế có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Những mục tiêu phát triển kinh tế là cơ sở quan trọng để mỗi quốc gia hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Hoạt động ngoại giao được triển khai đúng hướng sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi, giúp quốc gia đạt được những mục tiêu kinh tế.

3. Cấp độ của ngoại giao kinh tế trong quan hệ quốc tế

Ngoại giao là một lĩnh vực hoạt động chính trị có liên quan đến quá trình giao tiếp, đàm phán và chia sẻ thông tin giữa các quốc gia. Các mục tiêu của ngoại giao kinh tế thường được thực hiện trong các cuộc đàm phán song phương, khu vực hoặc đa phương.

Theo quan điểm của nhà ngoại giao Dubravko Žirovcic, xét về mặt cấp độ, ngoại giao kinh tế theo hình thức truyền thống là ngoại giao của chính quyền nhà nước và các tổ chức của họ trong việc thúc đẩy lợi ích kinh tế ở tất cả các cấp: song phương, khu vực, nhiều bên và đa phương(8).

Quan hệ song phương vẫn là mối quan hệ cơ bản và quan trọng của ngoại giao kinh tế. Nó bao gồm các hiệp định thương mại song phương, các hiệp ước, hiệp định về đầu tư, việc làm, các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và rất nhiều hoạt động chính thức và không chính thức khác giữa hai quốc gia. Có thể kể đến các hiệp định mậu dịch tự do của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc… Ngoại giao kinh tế song phương đóng vai trò quan trọng trong quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa các quốc gia. Xây dựng hiệp định thương mại tự do song phương được rất nhiều quốc gia trên thế giới chú trọng.

Đa phương là kiểu ngoại giao kinh tế giống như cấu trúc song phương, song bao gồm các giao thương không chính thức từ 3 quốc gia trở lên trên một loạt các vấn đề hoặc thông qua một hiệp định đa phương chính thức. Hợp tác khu vực ngày càng trở nên quan trọng trong ngoại giao kinh tế. Lợi ích quốc gia và tự do hóa kinh tế được phục vụ tốt nhất là trong bối cảnh của một khu vực cụ thể. Việc dỡ bỏ các rào cản và mở cửa thị trường trở nên dễ dàng hơn trong khuôn khổ khu vực. Các hiệp định kinh tế khu vực, đa phương là cách các quốc gia mở cửa nền kinh tế nhanh hơn. Tự do hóa kinh tế có thể dễ được chấp nhận hơn đối với lợi ích quốc gia khi nó diễn ra trong khuôn khổ một nhóm các nước trong khu vực. Ngoại giao kinh tế đa phương diễn ra trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như nhiều tổ chức kinh tế và tài chính quốc tế khác, như: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các cơ quan Liên Hợp quốc khác nhau… Việc thành lập WTO tạo sự thay đổi chính sách trong hệ thống thương mại toàn cầu hướng tới việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế.

Trên thực tế, hai cấp độ của ngoại giao kinh tế có sự tương tác lẫn nhau. Bản chất đa cấp của ngoại giao kinh tế đồng nghĩa với việc các nước tận dụng được lợi ích của các cấp độ kinh tế khác nhau đó. Điều đó cũng bao hàm rằng các chính phủ các quốc gia có rất nhiều lựa chọn để theo đuổi(9).

4. Thực tiễn ngoại giao kinh tế của một số quốc gia trên thế giới

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của ngoại giao kinh tế đang ngày càng khẳng định vị trí và tầm quan trọng đối với sự phát triển và vị thế quốc tế của từng quốc gia. Thế giới phẳng và toàn cầu hóa với sức kết nối, tính tùy thuộc lẫn nhau mạnh mẽ là lợi thế để các quốc gia, dân tộc trên thế giới cùng bắt tay hợp tác vì sự phát triển. Hội nhập quốc tế đã trở thành nhân tố quan trọng đặc biệt trong chiến lược của mỗi quốc gia để phát triển kinh tế. Mọi chính sách đối ngoại và đối nội của các quốc gia đều hướng tới mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Với những lý do đó, hoạt động ngoại giao kinh tế giữ vai trò quan trọng, giống như đòn bẩy kinh tế, thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia.

Ngày nay, ngoại giao kinh tế phát triển ngày càng rộng rãi và mạnh mẽ với nhiều nội dung và hình thức mới. Ngoại giao kinh tế được coi là trọng tâm của hoạt động ngoại giao. Mỗi quốc gia đều xác định cho mình những nội dung riêng trong chính sách ngoại giao kinh tế. Tại Nga, học thuyết mới về chính sách đối ngoại năm 2000 nêu rõ: “Nhiệm vụ chính trị của chính sách đối ngoại Liên bang Nga trong quan hệ kinh tế quốc tế là đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia thông qua việc đảm bảo vị thế của đất nước và doanh nghiệp Nga trong hệ thống kinh tế toàn cầu”(10).

Với Australia, ngoại giao kinh tế là việc sử dụng tất cả các tài sản ngoại giao trên thế giới để thúc đẩy sự thịnh vượng của Australia nói riêng và sự thịnh vượng của thế giới nói chung(11).Tại Ấn Độ, bốn mục tiêu chính của công tác ngoại giao kinh tế là: nâng cao và phát huy vị thế của Ấn Độ với tư cách là một cường quốc kinh tế đang nổi, là mục tiêu quan trọng nhất; thiết lập khuôn khổ có lợi cho kinh tế thương mại của Ấn Độ thông qua đàm phán các hiệp định song phương và đa phương; thúc đẩy xuất khẩu thông qua cung cấp thông tin thị trường hỗ trợ kết nối doanh nghiệp; chủ động thu hút đầu tư(12). Tại Nhật Bản, công tác ngoại giao kinh tế chú trọng đến tìm kiếm thị trường và thúc đẩy xuất khẩu, đồng thời sử dụng các thế mạnh tổng hợp để hoạch định và thực hiện một chính sách đối ngoại nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước, xây dựng hệ thống pháp luật quốc tế và môi trường quốc tế thuận lợi, bảo đảm lợi ích quốc gia tổng thể của Nhật Bản(13). Tại Hàn Quốc, Sách trắng Ngoại giao kinh tế năm 2011 của Hàn Quốc khẳng định, công tác ngoại giao kinh tế và thương mại cần tập trung vào các ưu tiên chính sau: (i) Mở rộng và củng cố một cách chiến lược mạng lưới FTA; (ii) Bảo đảm nguồn cung ứng năng lượng ổn định; (iii) Tăng cường hợp tác về tăng trưởng xanh và ít các-bon; (iv) Tham gia và thúc đẩy đàm phán trong WTO; (v) Thu hút đầu tư nước ngoài và hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp Hàn Quốc ở nước ngoài(14).

Ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: ngoại giao kinh tế đã là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, là một trong 3 trụ cột của ngoại giao Việt Nam, bên cạnh ngoại giao chính trị và ngoại giao văn hóa. Ngoại giao kinh tế đóng góp vào việc phát triển đất nước, từ việc xây dựng quan hệ với các nước, mở rộng hợp tác kinh tế đến hỗ trợ cho các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp đến các hoạt động kinh tế cụ thể.

Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 (tháng 8/2018), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: công tác ngoại giao kinh tế phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế đang được thúc đẩy mạnh mẽ, thật sự có bước chuyển quyết liệt, góp phần tìm kiếm, mở rộng thị trường và tranh thủ mọi nguồn lực để phục vụ nhu cầu phát triển đất nước. Hiện nay, kinh tế thế giới chuyển động nhanh với nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều bất ổn khó lường, trong khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động sâu rộng và toàn diện đến mọi nền kinh tế, Việt Nam cần phải “nhập cuộc”, nếu không sẽ bị tụt hậu và đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng của ngành ngoại giao. Thủ tướng yêu cầu Bộ Ngoại giao phải nâng tầm công tác ngoại giao kinh tế và lấy ngoại giao kinh tế làm tiêu chuẩn để đánh giá các cơ quan đại diện. Cụ thể, ngoại giao kinh tế cần làm tốt bốn nhiệm vụ lớn là: thu thập thông tin một cách chính xác, kịp thời, liên tục, đặc biệt là dự báo kinh tế; tham mưu cho Chính phủ, Bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp; đồng hành, hỗ trợ các Bộ ngành và địa phương, doanh nghiệp, đặc biệt là trong khâu tháo gỡ vướng mắc; đôn đốc triển khai các cam kết, thỏa thuận, dự án hợp tác quốc tế. Trong đó, ngoại giao kinh tế cần lấy doanh nghiệp làm trung tâm, đồng hành cùng doanh nghiệp vươn ra thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế có thành công hay không phụ thuộc vào sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp và thành công của doanh nghiệp trong hội nhập. Một nhiệm vụ quan trọng nữa của ngoại giao kinh tế là tăng cường tìm kiếm nguồn lực, quảng bá, xúc tiến thương mại, thu hút FDI, ODA, du lịch, kiều hối, xuất khẩu lao động… để cùng cả nước phát triển nền kinh tế số, công nghệ cao, thông minh trong cách mạng 4.0. Trong quá trình này, các Trưởng cơ quan đại diện phải đóng vai trò chỉ đạo, tiên phong, lĩnh xướng, thúc đẩy cơ hội đầu tư, quảng bá tiềm năng du lịch, tiếp thị các sản phẩm xuất khẩu. Các Đại sứ phải trở thành cầu nối thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, thu hút người tài nhất là trong lĩnh vực công nghệ tương lai của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, sức mạnh kinh tế được coi là một trong những nhân tố hàng đầu quyết định sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Sức mạnh kinh tế chính là nền tảng, là tiền đề, là điều kiện thúc đẩy sức mạnh quốc gia về mặt chính trị, quân sự… Với vai trò đó, ngoại giao kinh tế trở thành một trong những trụ cột quan trọng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia ở cả cấp độ song phương và đa phương. Vai trò của ngoại giao kinh tế ngày càng trở nên quan trọng trong giai đoạn hòa bình và phát triển, nhằm bảo vệ và mở rộng tối đa lợi ích quốc gia, tăng cường cạnh tranh và hợp tác quốc tế. Đây là xu hướng chung của hoạt động ngoại giao trên thế giới. Bất kể quốc gia nào dù là nước phát triển hay đang phát triển đều chú trọng sử dụng công cụ ngoại giao kinh tế để đạt được mục tiêu của mình. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại giao kinh tế đang trở thành xu thế tất yếu trong quan hệ quốc tế.

————————–

Chú thích:

(1) Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp: Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, TPHCM, 2013.
(2) G.R. Berridge, A. James: Dictionary of Diplomacy, Basingstoke, 2003.
(3) Guy Carron de la Carriere: La Diplomatie economique: Le diplomate et le marche, Paris: Economica, 1998.
(4) Zirovcic, Dubravko Duby: Theoretical Principles of Economic Diplomacy, SSRN Electronic Journal, 2016.
(5) https://thuvienphapluat.vn.
(6) Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2020 của Việt Nam, ban hành theo Quyết định số 208/2011/QĐ-TTg ngày 14-02-2011 của Thủ tướng Chính phủ.
(7) Đinh Thanh Tú & Lê Thế Lâm: Nhận diện chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Donal Trump, Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2017.
(8) Dubravko Duby: Theoretical Principles of Economic Diplomacy, SSRN Electronic Journal, 2016.
(9) Nicolas Bayne and Woolcock: The new economic diplomacy: decision making and negotiation in international economic relations, second edition, Ashgate Publishing Limited, England, p.8-10, 2007.
(10) Đoàn Thu Ngân: Ngoại giao kinh tế, lý luận và thực tiễn, Học viện Ngoại giao, Hà Nội, 2009.
(11) Australian’s Department of Foreign Affairs and trade, Economic Diplomacy, https://dfat.gov.au.
(12) Kishan S.Rana: Economic Diplomacy of developping coutries, 2002, http://www.cuts-sitee.org.
(13) Ministry of Foreign Affairs of Japan, Economic Diplomcy Speech by Seiji Maehara, Minister for Foreign Affairs of Japan, at CLSA Japan Forum 2011, http://www.mofa.go.jp
(14) Ministry of Foreign affairs of Korea, Diplomatic White Paper, http://www.mofa.go.kr.

Theo TẠP CHÍ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tags: ,