⠀
Một số xu hướng phát triển của thế giới hiện nay
Thế giới đang trong tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đa cực hóa về trật tự chính trị; đa dạng hóa về phát triển kinh tế – văn hóa; số hóa và tin học hóa trong đời sống xã hội, gia tăng hóa sự phụ thuộc vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau, phức tạp hóa sự hợp tác và đấu tranh vì lợi ích. Bối cảnh đó ẩn chứa nhiều chuyển biến lớn lao, phức tạp, khó lường, vừa mang đến thời cơ, vừa đặt ra không ít thách thức, với sự xuất hiện của một số xu hướng phát triển, nhất là trong khoảng từ một đến hai thập niên tiếp theo.
Tác giả: GS, TS Vũ Văn Hiền, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Sự chuyển dịch và thăng trầm quyền lực
Xu thế chuyển dịch quyền lực thế giới đang có sự chuyển biến và dần định hình trên ba bình diện: giữa các khu vực, giữa các nước lớn và giữa nhà nước với người dân. Sự chuyển dịch quyền lực này bắt nguồn từ sự thay đổi tương quan lực lượng kinh tế giữa các nước dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quy luật phát triển không đồng đều giữa các quốc gia. Tương quan sức mạnh kinh tế thay đổi dẫn tới những thay đổi về tương quan sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhất là sự gia tăng sức mạnh tổng hợp của các “quốc gia mới nổi”. Với sự tiếp sức của Mỹ và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đối với Ukraina, cuộc xung đột Nga – Ukraina theo nhận định của nhiều chuyên gia, đã thể hiện sự thay đổi quyền lực dẫn tới hình thành thế giới đa cực, đánh dấu sự suy giảm sức mạnh của Mỹ và NATO, làm gia tăng quyền lực và vai trò của Trung Quốc.
Sự chuyển dịch quyền lực ngày càng rõ nét từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Trong những thập niên tới, vị thế của châu Á ngày càng gia tăng, đặc biệt là khu vực châu Á – Thái Bình Dương với vai trò đầu tàu là động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thế giới. Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực đứng đầu thế giới về quy mô kinh tế và các nguồn lực phát triển kinh tế (như tài nguyên thiên nhiên, dự trữ ngoại hối, nguồn lực con người/thể chế), tốc độ tăng trưởng và tiềm năng phát triển kinh tế (độ lớn thị trường và hội nhập kinh tế khu vực). Đây cũng là khu vực có nhiều cường quốc nhất, tập trung ba(1) trong năm Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; các quốc gia có ảnh hưởng lớn về chính trị khác, như Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia – là các quốc gia đi đầu trong Phong trào Không liên kết; là khu vực có tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang đóng vai trò trung tâm trong các thể chế chính trị/an ninh khu vực. Bên cạnh đó, khu vực châu Á – Thái Bình Dương là nơi tập trung nhiều cường quốc quân sự nhất (7/10(2) cường quốc quân sự hàng đầu thế giới). Với những tiềm năng và lợi thế sẵn có, khu vực này đã lôi cuốn sự tham gia của các nước lớn và định hình trục quan hệ, xu hướng quan hệ quốc tế mới giữa các cường quốc, gồm Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ. Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế của châu Á, cùng với những thế mạnh về vốn, dự trữ ngoại tệ, lao động rẻ, tính năng động và sự trỗi dậy mạnh mẽ của các quốc gia, như Trung Quốc, Ấn Độ đã nâng cao vị thế của khu vực châu Á – Thái Bình Dương trên thế giới. Bên cạnh vai trò chủ đạo của các nước lớn trong lĩnh vực kinh tế đang suy giảm, các nước vừa và nhỏ ngày càng vươn lên giành vị trí tương xứng. Sự thay đổi trong quan hệ Bắc – Nam, trong đó vai trò của các nước vừa và nhỏ đã tăng lên đáng kể. Độ lớn về địa lý, quy mô kinh tế và triển vọng phát triển là những nhân tố quyết định để khu vực châu Á – Thái Bình Dương vươn lên trở thành trung tâm địa – chính trị toàn cầu.
Khả năng xuất hiện một cuộc “chiến tranh lạnh mới”?
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự tùy thuộc và lệ thuộc lẫn nhau đang tăng lên, với tư duy mới về an ninh và phát triển, cùng sự phổ biến của các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt và những bài học sau chiến tranh, khả năng xảy ra đụng độ lớn về quân sự giữa các cường quốc trong những thập niên tới là rất thấp. Tuy nhiên, cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn nhằm định hình lại trật tự thế giới diễn ra ngày càng phức tạp và căng thẳng dưới nhiều hình thức, như cuộc xung đột Nga – Ukraina hiện nay làm cho nguy cơ diễn biến trở thành cuộc chiến tranh lạnh kiểu mới ngày càng rõ nét. Điều này thể hiện thông qua những chính sách chạy đua vũ trang chưa từng có giữa Mỹ, NATO với Trung Quốc, Nga và các quốc gia khác. Bên cạnh đó, chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn diễn ra gay gắt, khó có điểm dừng. Một số nước lớn vẫn coi chiến tranh là biện pháp và vũ lực là công cụ quan trọng trong chính sách đối ngoại nên không ngừng tăng cường vũ trang, cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực “ngoại vi” và tại các điểm nóng trên thế giới. Điều này không nằm ngoài quy luật trong quan hệ quốc tế là các nước lớn chi phối quan hệ quốc tế và cạnh tranh chiến lược với nhau dựa trên sự thay đổi trong tương quan lực lượng như đã nêu trên… Do đó, xu hướng cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc tại vị, đại diện là Mỹ và các cường quốc mới nổi, đại diện là Trung Quốc và Nga ngày càng thể hiện rõ nét, nhất là ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Mỹ tìm cách đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc nhằm duy trì vị trí dẫn dắt trật tự thế giới và bảo vệ các lợi ích toàn cầu của Mỹ. Cạnh tranh trong quan hệ Mỹ – Trung Quốc và Mỹ – Nga tăng lên là do: 1- Các bên đều không cho phép bên nào đứng trên mình và đứng đầu để chi phối thế giới; 2- Tương tác giữa hai nước bị chi phối bởi vòng xoáy “hành động – phản ứng” theo hướng leo thang do tình trạng mất lòng tin và nghi kỵ lẫn nhau ngày càng trầm trọng; 3- Mỹ, Trung Quốc và Nga đều theo đuổi lập trường “cứng rắn”; chủ nghĩa dân tộc cực đoan và dân túy làm nổi rõ hơn các khác biệt và vì vậy xuất hiện những va chạm quyền lợi về kinh tế (thâm hụt thương mại), chiến lược (vấn đề Biển Đông, biển Hoa Đông), trật tự khu vực (các thể chế, kiến trúc khu vực) và giá trị (dân chủ, quyền con người, tự do tôn giáo); 4- “Mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới” do Trung Quốc đề xướng không trở thành hiện thực do nhiều yếu tố từ cả hai phía.
Trong thời gian tới, dự báo Mỹ và Trung Quốc đều mở rộng cạnh tranh chiến lược và tranh giành ảnh hưởng. Cạnh tranh Mỹ – Trung Quốc chủ yếu xoay quanh hai chủ đề: Một là, cạnh tranh vùng ảnh hưởng, nhất là can dự vào các “điểm nóng” tranh chấp trên Biển Đông và biển Hoa Đông; hai là, cạnh tranh quyền “tạo dựng luật chơi” về kinh tế, chính trị – an ninh trong các hiệp định, cơ chế, tổ chức thương mại do Mỹ và Trung Quốc dẫn dắt, như Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Ngân hàng Đầu tư kết cấu hạ tầng châu Á (AIIB), Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) do Trung Quốc khởi xướng; Luật chơi về chính trị – an ninh (giữa cơ chế hợp tác an ninh “trục – nan hoa” do Mỹ ở vị trí trung tâm với các cơ chế hợp tác, như Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Hội nghị về phối hợp hành động và các biện pháp xây dựng lòng tin ở châu Á (CICA) do Trung Quốc đóng vai trò chủ đạo.
Tuy nhiên, cạnh tranh Mỹ – Trung Quốc dù diễn ra rất quyết liệt trên nhiều phương diện, nhưng sẽ không dẫn đến xung đột trực tiếp và không gây đổ vỡ quan hệ bởi Mỹ vẫn có lợi ích và nhu cầu hợp tác với Trung Quốc, vì: thứ nhất, Mỹ cần duy trì hòa bình và ổn định khu vực để tập trung theo đuổi các mục tiêu đối nội; thứ hai, tình trạng lệ thuộc lẫn nhau giữa hai quốc gia là khá lớn, nhất là trong lĩnh vực kinh tế; thứ ba, Mỹ vẫn cần sự hỗ trợ của Trung Quốc để giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực.
Một số chuyên gia phân tích dự báo đến năm 2030 và tiếp nữa là năm 2045, ít có khả năng xuất hiện một cường quốc có thể thay thế vai trò của Mỹ, mặc dù thế và lực của Mỹ đã bị suy giảm đáng kể. Mỹ vẫn sẽ là tác nhân quan trọng nhất trong số các cường quốc trên thế giới dựa vào ưu thế vượt trội về tiềm lực sức mạnh của Mỹ, bởi: Một là, Mỹ vẫn đang dẫn trước các nước khác một khoảng cách lớn về kinh tế, quân sự, khoa học – công nghệ; hai là, những điều chỉnh của Mỹ về cơ cấu kinh tế và quân sự trên cơ sở cách mạng khoa học – công nghệ tạo nên một nền tảng khá vững chắc để Mỹ duy trì vị trí dẫn đầu về tiềm lực kinh tế và quân sự – hai nhân tố cơ bản để tạo nên sức mạnh Mỹ trong quan hệ quốc tế.
Có thể nói, cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra không có sự đối đầu trực tiếp như cuộc chiến giữa Mỹ và Liên Xô trong thế kỷ 20, nhưng cũng không kém phần quyết liệt. Cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc cũng kéo theo cuộc chạy đua vũ trang vô cùng mạnh mẽ, tốn kém, gây ra những hệ lụy đối với trật tự thế giới, tác động tiêu cực đến quá trình hội nhập quốc tế của nhiều quốc gia.
Xu hướng dân túy gia tăng
Trào lưu dân túy ở các nước phát triển có nguyên nhân trực tiếp từ khủng hoảng kinh tế – tài chính. Đại dịch COVID-19 cùng với cuộc xung đột Nga – Ukraina đã dẫn đến suy thoái, lạm phát nghiêm trọng ở nhiều nước phát triển, làm dấy lên tâm lý bất mãn, thất vọng, mất niềm tin của người dân với chính quyền. Đặc biệt, xu hướng dân túy diễn ra gần đây bắt nguồn sâu xa từ các hệ lụy tiêu cực của tiến trình toàn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến các nước phát triển khiến sự phân tầng trong xã hội ngày càng sâu sắc, bất bình đẳng xã hội tăng cao và nỗi lo lắng về mất bản sắc văn hóa, dân tộc nổi lên ngày một rõ nét. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa dân túy có xu hướng hữu khuynh hoặc cực hữu, tập trung phê phán các chính sách ủng hộ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, mở cửa biên giới, mở cửa xã hội, được cho là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng kinh tế trong nước suy giảm, mất việc làm (do hàng xuất khẩu và cạnh tranh từ nước ngoài), mất bản sắc văn hóa dân tộc và mất an ninh (do người nhập cư).
Hiện nay, chủ nghĩa dân túy đang gây ra một số tác động khá tiêu cực. Ở trong nước, dân túy ở phương Tây cổ vũ việc xây dựng một xã hội đồng nhất, một nhà nước mạnh mẽ và chuyên chế, đủ năng lực kiểm soát chặt chẽ lãnh thổ biên giới quốc gia và bảo vệ được lợi ích của người dân trước mối đe dọa từ bên ngoài. Nhưng kết quả lại làm gia tăng các mâu thuẫn nội bộ, đẩy tình trạng bất mãn lên cao, từ đó dẫn đến môi trường chính sách đối nội và đối ngoại trở nên bất định. Đối với bên ngoài, xu hướng dân túy thúc đẩy chống liên kết, hội nhập quốc tế và khu vực, giảm sự ưu tiên, thậm chí là rời khỏi các thể chế đa phương (như trường hợp Anh rút khỏi Liên minh châu Âu, Mỹ và nhiều đảng cánh hữu ở Pháp muốn giảm thiểu vai trò của NATO), hạn chế và kiểm soát chặt dòng người nhập cư bằng các biện pháp cực đoan, thắt chặt viện trợ quốc tế, thiên về áp dụng các biện pháp bảo hộ cứng rắn để bảo vệ nền sản xuất và việc làm trong nước. Điều này đã làm suy giảm mức độ hợp tác, gia tăng cạnh tranh, xung đột, dẫn đến những căng thẳng mới trong quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, xu hướng dân túy thường không bền lâu do các nguyên nhân chủ yếu sau: 1- Với lập trường cực đoan, xu hướng dân túy khó tạo ra đồng thuận xã hội đối với chính sách mà dân túy đề xuất. Mâu thuẫn chính trị – xã hội thường tăng lên sau khi phái dân túy thắng cử và lên nắm quyền; 2- Các nhà lãnh đạo dân túy thường chạy theo đám đông, thậm chí đưa ra những tiêu chí “mị dân” (hứa hẹn những điều khó thực hiện, chủ yếu phục vụ mục tiêu thắng cử). Do đó, khi không giữ được lời hứa, các nhà lãnh đạo dân túy sẽ đánh mất niềm tin của người dân; 3- Với lập trường chống lại chính trị dòng chính, phái dân túy rất khó tập hợp được sự ủng hộ và tận dụng kinh nghiệm lãnh đạo của tầng lớp tinh hoa chính trị truyền thống. Không ít trường hợp sau khi nắm quyền, các nhà lãnh đạo dân túy dần từ bỏ cam kết đã hứa, quay lại đường lối chính trị truyền thống, từ đó mất đi cơ sở xã hội – chính trị của mình; 4- Một số ý kiến cho rằng, dân túy về cơ bản là “phái sinh” của các trường phái chính trị truyền thống, chỉ đại diện cho các “hệ tư tưởng mỏng”, cực đoan và không chính thống, do đó khó có sức hấp dẫn lâu bền.
Xu hướng bảo hộ ngày càng trỗi dậy
Bảo hộ là một trong những xu thế luôn tồn tại trong lịch sử kinh tế thế giới, thường gia tăng sau những chu kỳ khủng hoảng kinh tế. Trong những năm qua, chủ nghĩa bảo hộ đã trỗi dậy mạnh mẽ với các biểu hiện mới như: Một là, bảo hộ có xu hướng phát triển mạnh ở các nước phát triển – vốn cổ vũ cho tự do hóa và toàn cầu hóa; hai là, số lượng biện pháp bảo hộ tăng mạnh, lĩnh vực bảo hộ mở rộng với nhiều biện pháp phức tạp, tinh vi hơn, trong đó việc sử dụng các biện pháp bảo hộ “phía sau biên giới” tăng nhanh. Bảo hộ không chỉ giới hạn trong lĩnh vực trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ, mà còn bao gồm cả tài chính, bảo hộ đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch chuyển tự do lao động…; ba là, chính sách bảo hộ mang nặng tính dân túy. Các chính sách, biện pháp hạn chế thương mại gần đây được dựng lên ở một số nước thường dựa trên những đánh giá, nhận định phiến diện, thiếu cân bằng, thậm chí cực đoan của các lực lượng chính trị dân túy về thương mại, đầu tư, di chuyển lao động quốc tế.
Xu hướng bảo hộ quay trở lại là do: Thứ nhất, kinh tế toàn cầu và kinh tế ở nhiều nước, nhất là ở các nước phát triển đang gặp khó khăn. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia đã lựa chọn chính sách kích thích kinh tế, tăng cường hỗ trợ sản xuất trong nước với tâm lý hướng nội nhiều hơn để tập trung khắc phục khó khăn trong nước, từ đó làm giảm động lực tự do hóa và mở cửa kinh tế; thứ hai, tác động “nghịch” ngày càng lớn của toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy trào lưu chống toàn cầu hóa phát triển mạnh ở nhiều nước phát triển; thứ ba, sự trỗi dậy của trào lưu dân túy, bất ổn chính trị – xã hội và an ninh đã góp phần thổi bùng chủ nghĩa bảo hộ.
Chủ nghĩa bảo hộ cùng với xu hướng dân túy đang và sẽ ảnh hưởng mạnh đến tiến trình phục hồi kinh tế khu vực và thế giới; đồng thời, tác động tiêu cực đến liên kết kinh tế toàn cầu và khu vực, ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến quá trình hội nhập quốc tế. Việc quay trở lại chủ nghĩa bảo hộ, đóng cửa thị trường, hạn chế liên kết kinh tế, giảm thiểu sự ủng hộ đối với tự do thương mại đa phương, dẫn đến cản trở thương mại và đầu tư quốc tế đã và đang tạo ra hệ lụy tiêu cực, tác động đến tiến trình tăng trưởng kinh tế thế giới và làm chậm lại quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng. Bên cạnh đó, xu hướng bảo hộ quay trở lại ở một số nền kinh tế lớn có thể làm tăng thêm mâu thuẫn, bất đồng vốn tích tụ trong một số vấn đề kinh tế – thương mại, do đó làm gia tăng các va chạm về lợi ích, tất yếu dẫn đến chiến tranh thương mại. Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung Quốc hiện nay là một minh chứng rõ nét nhất.
Suy giảm vai trò của các cơ chế đa phương
Sự nổi lên của làn sóng dân túy và chủ nghĩa bảo hộ kết hợp với việc đề cao lợi ích quốc gia, dân tộc đã và đang tác động lớn đến các cơ chế hợp tác đa phương. Nhiều quốc gia đã giảm cam kết với các thể chế đa phương, tăng cường tiếp cận với các thể chế song phương, thậm chí đơn phương. Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ tác động rất lớn đến trật tự quốc tế và các cơ chế hợp tác đa phương. Khuôn khổ chính sách đối ngoại được xây dựng với phương châm “Nước Mỹ trên hết” dựa trên hai thành tố cơ bản là “hòa bình dựa trên sức mạnh” và “giao dịch” đã cho thấy sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Đó là: 1- Ưu tiên các cơ chế hợp tác song phương, giảm can dự vào các thể chế đa phương về kinh tế và ngoại giao; 2- Ưu tiên cách tiếp cận “hòa bình dựa trên sức mạnh” thông qua việc gia tăng chi phí quân sự, tăng sự hiện diện quân sự ở khu vực, kể cả “quân sự hóa” bộ máy hoạch định chính sách an ninh, coi việc sử dụng vũ lực là một công cụ quan trọng của chính sách đối ngoại; 3- Cách tiếp cận là ưu tiên đối nội, giảm nhẹ đối ngoại theo chủ trương “quay vào bên trong” (tập trung xử lý các vấn đề trong nước, nhất là liên quan đến tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, xử lý các mâu thuẫn nội bộ).
Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ kéo theo sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn khác, nhất là Trung Quốc, Nga, Nhật Bản…, đã làm phức tạp và gia tăng biến động trong quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa các nước ngày càng có xu hướng “cá nhân hóa” dựa trên những ưu tiên lựa chọn trong chính sách đối ngoại của từng nước; xu hướng mặc cả, thỏa hiệp ngầm giữa các nước, nhất là các nước lớn tăng lên. Các nước, nhất là các nước nhỏ, một mặt, vẫn tiếp tục dựa vào các cơ chế đa phương và luật pháp quốc tế để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình; mặt khác, vẫn phải chuẩn bị các biện pháp ứng phó trước những biến động khó lường trong cuộc cạnh tranh và thỏa hiệp của các nước lớn.
Xu hướng suy giảm quyền lực của nhà nước
Chuyển dịch, phân tán và thăng trầm quyền lực trong quan hệ giữa nhà nước và người dân đang diễn ra. Dưới tác động của phát triển kinh tế, nhất là ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phân tầng xã hội đã và đang diễn ra mạnh mẽ, làm cho xu thế dân chủ hóa, đặc trưng bởi sự phân tán quyền lực và phi tập trung hóa quyền lực ngày càng mạnh mẽ hơn.
Sự gia tăng tầng lớp trung lưu tại các nước đang phát triển thúc đẩy xu hướng phân tán quyền lực. Cùng với sự thành công trong phát triển kinh tế và các chương trình xóa đói, giảm nghèo của các nước đang phát triển, tỷ lệ người nghèo và cực nghèo trên toàn cầu sẽ tiếp tục giảm. Chương trình nghị sự của Liên hợp quốc về phát triển bền vững đã đặt mục tiêu đến năm 2030 xóa bỏ tình trạng nghèo đói trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu với chất lượng cuộc sống (giáo dục, y tế, văn hóa…) ngày càng được cải thiện; công nghệ mới trong lĩnh vực chế tạo và viễn thông được ứng dụng rộng rãi, góp phần gia tăng vai trò và quyền lực của người dân. Theo một số dự báo, trong thời gian tới, số dân thuộc tầng lớp trung lưu sẽ tăng từ mức 1 tỷ người hiện nay lên 2 – 3 tỷ người, chủ yếu ở khu vực châu Á, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ.
Những tiến bộ xã hội và dân chủ hóa cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm đa dạng hóa chủ thể (doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân) và hình thức tham gia xã hội (tham gia trực tuyến, mạng xã hội, công dân toàn cầu, cư dân mạng…), tạo nên sự kết hợp giữa thế giới thực và thế giới ảo. Sự phát triển của các phương tiện thông tin, như mạng xã hội(3), điện thoại thông minh… tạo điều kiện để người dân bày tỏ quan điểm cá nhân, qua đó nâng cao vai trò và ảnh hưởng của mình đối với xã hội. Cách mạng khoa học – công nghệ cũng làm gia tăng tính bình đẳng và dân chủ trong quan hệ giữa đối tượng quản lý và đối tượng chịu quản lý dưới tác động của sự phân tán quyền lực và phi tập trung hóa quyền lực. Sự thay đổi vai trò của người dân dẫn đến những thay đổi trong quan hệ giữa người dân với chính phủ, nhà nước. Mối quan hệ này không còn đơn thuần một chiều, có tính mệnh lệnh, mà trở thành quan hệ tương tác giữa các chủ thể tương đối bình đẳng. Trong một số trường hợp, mỗi cá nhân hoặc một nhóm các cá nhân có thể dẫn dắt, định hướng chủ đề và buộc chính phủ phải hành động. Nói cách khác, sức ép cải cách thể chế đã gia tăng khi công nghệ thông tin làm thay đổi phương thức liên hệ, giao tiếp của tất cả các quan hệ trong xã hội, đặc biệt là giữa chính phủ với người dân, hoặc giữa người dân với nhau.
Tuy nhiên, phần lớn chính phủ vẫn chưa thay đổi cách tương tác với người dân và quản lý xã hội để thích ứng với các thay đổi trên. Một số học giả cho rằng: Chúng ta phải ứng xử với thế giới trong thế kỷ 21, nhưng hệ thống chính trị vẫn dừng ở thế kỷ 18 và 19. Đây là xu hướng còn tiếp tục trong thời gian tới, mặc dù thực tế cho thấy là ngày càng có nhiều nền chính trị tăng cường thích nghi với hoàn cảnh mới để hướng tới mối quan hệ hài hòa hơn với người dân. Mô hình chính phủ điện tử, chính phủ kiến tạo và liêm chính đang là hướng đi của nhiều nước nhằm thích ứng với tình hình.
Có thể nói, những xu hướng phát triển trên thế giới đang diễn ra sẽ tác động không nhỏ đến các quốc gia và khu vực, tạo ra cơ hội để phát triển, nhưng cũng mang đến không ít thách thức, đòi hỏi mỗi quốc gia lựa chọn phương thức ứng phó phù hợp trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi khó lường.
———————
Chú thích:
(1) Gồm: Trung Quốc, Nga, Mỹ
(2) Gồm: Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Hàn Quốc
(3) Hiện nay, trung bình mỗi người sử dụng internet trên thế giới có đến 5,54 tài khoản mạng xã hội; cứ mỗi 12 giây lại có một tài khoản mạng xã hội mới được kích hoạt, trong đó đứng đầu là Facebook với 1,55 tỷ lượt người sử dụng.
Theo TẠP CHÍ CỘNG SẢN
Tags: Nghiên cứu quốc tế