Nghệ thuật ngoại giao tôn giáo trong lịch sử Việt Nam

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta từng có hai cuộc bang giao tôn giáo nổi tiếng: Lần thứ nhất vào thời vua Lê Đại Hành, lần thứ hai vào thời vua Trần Nhân Tông.

Cuộc bang giao thứ nhất vào cuối thế kỷ X, hai vị Thiền sư Pháp Thuận và Khuông Việt với tư cách ngoại giao quan, thay vua Lê Đại Hành đã tiếp sứ giả nhà Tống tại cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Sau khi tham gia vào chiến thắng năm 981, tiêu diệt toàn bộ đội quân xâm lược Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, Khuông Việt lại tham gia vào mặt trận đấu tranh ngoại giao ngày càng trở nên xung yếu trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Nổi bật nhất là sự kiện Khuông Việt tiếp đón phái bộ ngoại giao của Lý Giác đến nước ta vào năm Thiên Phúc thứ 8 (987). Trước khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã sai Khuông Việt viết một khúc nhạc để tiễn đưa phái bộ. Và bài Vương Lang quy – một từ khúc ngoại giao nổi tiếng với lời lẽ hết sức mềm mỏng, khéo léo nhưng lại hết sức cương nghị, đã được Đại sư ứng tác trong dịp này để đưa tiễn Lý Giác trở về: “Tường quang phong hảo cẩm phàm trương/Dao vọng thần tiên phục đế hương/Vạn trùng sơn thuỷ thiệp thương lương/Cửu thiên qui lộ trường/Tình thảm thiết/Đối ly thương/Phan luyến sứ tinh lang/Nguyện tương thâm ý vị biên cương/Phân minh tấu ngã hoàng. Tạm dịch: “Gió Xuân đầm ấm cánh buồm giương,/ Ngóng vị thần tiên lại đế vương./ Non nước nghìn trùng vượt đại dương/ Trời xa bao dặm trường/Tình thắm thiết/ Chén đưa đường/Vin xe sứ giả vấn vương/Dám xin tâu rõ cùng thánh thượng: Lưu ý chốn biến cương”.(Trần Thanh Mại dịch).

Sau khi Lý Giác đươc 2 vị Quốc sư đón tiếp và đàm phán các vấn đề quốc gia đại sự, khi trở về Trung Quốc, Lý Giác đã để lại bài thơ tặng vua Lê Đại Hành, trong đó có câu: ” Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu”. Nghĩa là: “Ngoài trời lại có trời soi rọi”. Vua Lê Đại Hành đưa bài thơ ấy hỏi các vị thiền sư, bài thơ ấy ngụ ý nói gì, Thiền sư Khuông Việt đáp: Sứ giả nhà Tống muốn nói vua Việt Nam ngang hàng vua Trung Quốc.

Được sứ giả nhà Tống kính phục, tôn trọng vua Việt như vua Trung Quốc, từ đó biên cương phía Bắc được vững bền.

Cuộc bang giao thứ hai, vào thời Trần. Trần Nhân Tông là vị vua có đối sách ngoại giao mềm dẻo nhưng cương quyết, biết hoạch định những chiến lược đúng đắn làm nền tảng vững chắc cho chính sách đối ngoại của nước Đại Việt.

Theo vua Trần Nhân Tông, trước áp lực thường xuyên của thế lực phương Bắc, con đường sinh tồn của nước Đại Việt còn là ổn định biên giới phía Nam để có thêm hậu thuẫn mạnh. Đối sách của vua Trần Nhân Tông theo hai chiều Nam – Bắc được lịch sử khẳng định là phù hợp, và đã được các triều đại kế tiếp noi theo, tạo nên một quốc gia hùng mạnh, vững vàng, hòa hiếu, đất đai rộng mở suốt tiến trình lịch sử 700 năm sau đó.

Trong 14 năm gắn bó với chính sự, vua Trần Nhân Tông đã để lại dấu ấn chính sự trong chính sách đối ngoại của nhà Trần thể hiện trên 3 nội dung lớn. Đó là cương quyết tập trung toàn lực đối phó với quân Nguyên Mông ở phía Bắc và phía Đông để bảo vệ đến cùng nền độc lập dân tộc; tăng cường hoạt động ở Ai Lao để ổn định bền vững ranh giới bờ cõi phía Tây; nỗ lực kết giao với Chămpa nhằm giữ gìn lãnh thổ phía Nam. Đặc biệt, cuối thế kỷ XIII sau hai lần đại thắng Nguyên Mông, trở thành vị Minh quân – Anh hùng giải phóng dân tộc, ở vào tuổi 35, vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, lên núi Yên Tử tu Phật, đắc đạo trở thành Phật Hoàng. Phật Hoàng Trần Nhân Tông đi vào Chiêm Thành, đàm phán với vua Chiêm Thành gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm, thống nhất với vua Chiêm cắt 2 châu Ô và châu Lý về cho nước Đại Việt. Thế là, nước ta được mở rộng biên cương tới Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.

Đây là cuộc bang giao tôn giáo để mở mang bờ cõi đầu tiên về phía Nam là do một vị Phật Hoàng mở cõi. Cũng trong lịch sử, thời Trần, các vua nhà Trần đã cử Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Tảng,… đều là những tướng giỏi của triều đình, là những Phật tử thuần thành về huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn – Quảng Ninh để làm kinh tế biển và trấn giữ giang sơn.

Lòng tự hào dân tộc và ý thức bảo vệ chủ quyền biên cương hải đảo, được Bác Hồ thể hiện rõ nhất khi Người ra thăm huyện đảo Cô Tô vào năm 1961. Và, gần đây Giáo hội Phật giáo Việt Nam được sự ủng hộ của TP Hà Nội xây dựng tượng đài Thánh Gióng; xây dựng Đền Xã Tắc tại Móng Cái, Quảng Ninh…Mới đây đã có 6 vị sư đến Trường Sa để tu niệm, cùng chia sẻ, gánh vác trách nhiệm với các Phật tử đang làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước và cầu nguyện cho những người con của dân tộc đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, cầu mưa thuận, gió hòa cho ngư dân. Sắp tới, Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ xây dựng các ngôi chùa tại huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn (Quảng Ninh)…

Có thể nói, những tư tưởng tôn giáo gắn với lòng yêu nước, thương dân, trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân, nhân loại, thông qua việc thực hiện những đối sách ngoại giao uyển chuyển, kiên quyết, kế sách giữ nước, yên dân sáng suốt trong các thời kỳ lịch sử của dân tộc đã góp phần bảo vệ đất nước vượt qua bao sóng gió, giữ vững bờ cõi, biên cương và xây dựng đất nước ta xứng tầm thời đại từ xưa đến nay.

Theo ĐẠI ĐOÀN KẾT

Tags: , ,